Nguyễn Thị Mai Hoa
Sau Chiến tranh thế
giới thứ hai, Mỹ trở thành quốc gia lớn mạnh nhất hành tinh, là nước duy nhất sở
hữu vũ khí hạt nhân tại thời điểm đó và là một trong những nước có quyền phủ
quyết tại Hội đồng Bảo an của Liên Hợp Quốc. Trong điều kiện bàn cờ thế giới về
bản chất là cuộc chơi giữa các nước lớn, thì với ngần ấy ưu thế, Mỹ không chỉ sở
hữu tiếng nói trọng lượng trong giải quyết nhiều vấn đề quốc tế, mà nhiều diễn
biến quốc tế sẽ vận động theo quan điểm, lập trường của Mỹ cũng như theo xu hướng
mà Mỹ mong muốn.
Hậu Chiến tranh thế
giới thứ hai, một câu chuyện có tính thời sự nóng bỏng, được nhiều nước quan
tâm là về giải thuộc địa và phi thực dân hóa. Thái độ, chính sách của Mỹ về vấn
đề này có ảnh hưởng quan trọng đối với ý định, kế hoạch khôi phục quyền cai trị đối với các thuộc địa của nhiều nước, trong đó
có sự quay lại Đông Dương (và Việt Nam) của người Pháp.
1- Vào cuối thế kỷ 19, Hoa Kỳ là nước sở hữu số lượng và diện
tích thuộc địa vào loạt ít nhất thế giới nhất trong so sánh với nhiều nước đế
quốc khác, nhất là với Anh và Pháp. Người dân Mỹ
chỉ trích mạnh mẽ các cường quốc châu Âu đang áp đặt chủ nghĩa thực dân lên các
nước thuộc địa ở khắp nơi trên thế giới.
Ở Đông
Nam Á, Mỹ có thuộc địa duy nhất là Philippines, nơi Mỹ thiết lập quyền thống
trị từ năm 1902; tuy nhiên, ngay từ thời điểm đó, Mỹ đã không coi đây là “ách
thống trị thực dân”, mà gọi đó là chế độ "bảo hộ nhân từ" trên cơ sở
chính phủ tự trị bản xứ có hiến pháp và quốc hội riêng. Mỹ tuyên bố bằng con đường
đó sẽ từng bước giúp nhân dân Philippines thực hiện tự trị, tự quản. Tháng 3-1934,
Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Tydings-McDuffie, quy định sẽ thành lập một nước Philippines thịnh vượng chung (Commonwealth of the Philippines) vào năm 1936. Nhà nước Philippines thịnh vượng chung sẽ
tồn tại trong vòng 10 năm và là hình thức nhà nước quá độ để tiến tới một nước Philippines độc lập vào năm
1946. Trong 10 năm quá độ (1936-1946), chế độ tự trị vẫn được duy trì ở Philippines và quyền lợi của Mỹ
vẫn được đảm bảo.
Sau thất bại của Mỹ tại Trân Châu Cảng (12-1941) quân đội
Nhật Bản tấn công và đánh chiếm Philippines, Manila rơi vào tay Nhật (2-1942). Một Ủy ban điều hành đất nước được thành lập từ hơn 30
thành viên của giới tinh hoa chính trị Philippines thân Nhật. Phối hợp với lực
lượng quân sự Nhật Bản tại Manila, Ủy ban này cai quản Philippines và tồn tại đến
tháng 9-1943, khi nó được thay thế bằng sự ra đời của nước Cộng hòa Philippines
độc lập (Đệ nhị Cộng hòa Philippines)
với Tổng thống là José Laurel (được
lựa chọn bởi người Nhật). Người Nhật đã trao trả độc lập cho Philippines trong
nỗ lực tuyên truyền về chủ nghĩa Liên Á.
Cuối năm 1944, Nhật Bản
bị đánh bại, quân đội Mỹ chiếm lại Philippines và đến năm 1946 đã trao trả độc
lập cho quần đảo này. Cuối cùng, giấc mơ
độc lập của nhân dân Philippines đã trở thành
hiện thực.
Từ
trường hợp Philippines, mô hình "bảo hộ nhân từ" được Mỹ
coi là khuôn mẫu trong giải quyết các vấn đề liên quan đến thuộc địa sau Chiến
tranh thế giới thứ hai. Đó cũng là một trong những cơ sở để Mỹ đề xuất chế độ ủy
trị quốc tế đối với các thuộc địa cũ của các nước
đế quốc. Vào năm 1941, khi Chiến tranh thế giới thứ hai còn đang diễn ra
hết sức khốc liệt, Mỹ đã cam kết thực hiện nguyên tắc về quyền tự quyết của các
dân tộc thông qua việc cùng với Anh ra Tuyên
bố chung Đại Tây Dương. Điều 3 của bản Tuyên bố nêu rõ rằng hai nước này “tôn trọng quyền lựa chọn chính thể mình muốn của các
dân tộc, ước mong thấy chủ quyền và chính phủ tự trị của các nước trước kia bị
các nước khác dùng sức mạnh tước mất quyền đó được lập lại”[1].
Một năm sau đó (năm 1942), những nội dung này một lần nữa được xác nhận và nhấn mạnh lại trong dịp 26
quốc gia thông qua Hiến chương Đại Tây Dương. Tháng 6-1945, Hiến chương Liên Hợp Quốc
được ký kết và trong phần Tuyên ngôn về
những lãnh thổ không tự trị đã yêu cầu các
quốc gia thành viên có trách nhiệm hoặc đảm đương trách nhiệm “quản trị những
lãnh thổ mà nhân dân chưa hoàn toàn tự quản trị được, thừa nhận nguyên tắc đặt
quyền lợi của nhân dân các lãnh thổ lên hàng đầu”[2],
nhằm giúp các lãnh thổ đó được phồn vinh trong khuôn khổ của hệ thống hoà bình
và an ninh quốc tế do Hiến chương định ra.
Qua
những diễn biến nói trên, có thể kết luận rằng, trong và sau Chiến tranh thế giới
lần thứ hai, về mặt lý thuyết, đã xuất hiện những điều kiện, những cơ hội cũng
như khả năng cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc thực hiện quyền dân tộc tự
quyết. Tuy nhiên, từ lý thuyết đến thực tiễn lại là câu chuyện khác –đó là cả một
quãng đường dài, nhiều chông gai và hết sức gian nan.
2- Chiến tranh thế giới hai, “như hầu hết người Mỹ, Franklin D. Roosevelt ít quan tâm hoặc
biết đến Đông Dương thuộc Pháp”[3].
Thật vậy, Việt Nam cũng như các thuộc địa của
Pháp ở Đông Dương nằm ở ngoại vi quan hệ đối ngoại của Mỹ. Theo F.D.Roosevelt luôn dành mối quan tâm hàng đầu cho châu Âu
và khu vực Mỹ Latinh kề cận[4]. Những chú ý đầu tiên của chính quyền F.D.Roosevelt đến tình hình Đông Dương liên quan tới sự kiện
Pháp - Nhật tranh chấp quần đảo Hoàng Sa (1939), dù thái độ lúc đó của Mỹ là ôn
hòa và trung lập. Cùng với sự kiện này, Đông Dương thuộc Pháp đã chiếm một vị
trí nhất định trong tiềm thức của Tổng thống và nhân viên Bộ Ngoại giao Mỹ
nhưng chỉ với tư cách là “một khu vực địa lý không thể phủ nhận dưới sự kiểm
soát của Pháp và có ý nghĩa quan trọng đối với chính phủ Tưởng Giới Thạch, chứ
không phải như một vùng đất của người bản xứ với những quyền và khát vọng của
riêng mình"[5].
Vấn
đề Đông Dương trở nên đậm nét hơn trong nhận thức của Mỹ, quan trọng thứ hai chỉ sau vấn đề Trung Hoa Dân Quốc khi Pháp
đầu hàng Đức (1940) dẫn đến khả năng Đông Dương có thể rơi vào tay một thành
viên phe Trục là Nhật Bản, nhất là khi nước Nhật ngày càng lấn tới, đưa thêm
yêu sách về chia sẻ quyền lực tại khu vực này và không ngừng gia tăng sức ép
lên Chính phủ Vichy. Hơn thế, Nhật Bản đã trở nên nguy hiểm hơn đối với Hoa Kỳ khi ký Hiệp ước ba bên với Đức và Ý (9-1940);
qua đó liên kết những cuộc xung đột ở châu Âu và châu Á không chỉ chống Liên Xô
mà còn nhằm cả vào Mỹ. Trước nguy cơ bành trướng
sức mạnh của Nhật ở Đông Dương, Mỹ yêu cầu “chính phủ Nhật phải ngừng mọi hành
động chiếm đóng Đông Dương bằng quân đội và hải quân, hoặc ngừng ngay những khởi
sự đang bắt đầu”[6], đề nghị Nhật cùng cam kết “coi Đông Dương là
một quốc gia trung lập cùng một cách thức như nước Thụy Sĩ mà các cường quốc đã
công nhận là quốc gia trung lập”[7]; đồng thời, hứa nếu Nhật Bản tuân thủ những điều kiện
đó, sẽ đảm bảo cho Nhật Bản quyền lợi được cung cấp nguyên liệu từ Đông
Dương trên cơ sở cân bằng với các nước khác. Trước khi sự kiện Trân Châu Cảng nổ
ra, Hoa Kỳ thậm chí vẫn còn xúc tiến và hy vọng ký được một Hiệp ước không xâm
lược lẫn nhau với Nhật. Tuy nhiên, không chấp nhận chia sẻ quyền lợi, Tokyo đã quay lưng lại với hầu hết những đề nghị của
Washington, tiếp tục xúc tiến kế hoạch bành trướng toàn Đông Nam Á. Đáp trả, Hoa Kỳ sử
dụng biện pháp trừng phạt kinh tế, đánh mạnh vào nền sản xuất công nghiệp quốc
phòng của Nhật, kiềm chế sức mạnh quân sự của quốc gia này (thực hiện lệnh cấm vận dầu mỏ, sắt, thép vụn, đóng băng mọi tài sản của Nhật tại Mỹ[8]). Phản ứng của Washington trước việc Nhật Bản chiếm đóng Đông
Dương quyết liệt hơn so với dự kiến của Tokyo; tuy nhiên, các lệnh cấm vận
của Mỹ chẳng những không ngăn được quyết tâm giành lấy Đông Dương của Nhật, mà
trái lại, còn khiêu khích và đẩy nước này vào những hành động chiến tranh quyết
đoán hơn - cái vòng luẩn quẩn đó cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn quan
hệ Mỹ-Nhật sau sự kiện Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng (12-1941).
Chiến tranh với Nhật Bản (chiến tranh Thái Bình Dương) củng
cố thêm tầm quan trọng địa chính trị của Việt Nam đối với Mỹ. Mỹ nhận thức Việt
Nam từ vị trí bàn đạp để Nhật Bản tấn công Philippines, Malaysia, Singapore, Indonesia, Trung Quốc; đồng
thời, coi việc chiếm Đông Dương của Nhật như là một bước tiếp theo quan trọng
hơn nhằm nắm quyền kiểm soát vùng biển phía Nam, bao gồm các con đường thương mại
hết sức quan trọng đối với Hoa Kỳ và nhằm kiểm soát các sản phẩm chiến lược đối
với phát triển kinh tế như cao su, thiếc, dầu mỏ…. Khi chiến tranh Thái Bình Dương vừa bùng nổ, trong các cuộc thảo luận với mật độ tương đối dày
đặc giữa đại diện Mỹ Peter Marshall với đại diện chính phủ Pháp, vấn đề Đông Dương đã liên tục được nhắc tới và Washington bày tỏ sự
quan tâm đến việc Pháp bảo tồn các vùng lãnh thổ ở ngoài (các thuộc địa của
Pháp), yêu cầu Pháp tiến hành chiến tranh chống lại các cuộc xâm lược của những
nước thuộc khối Trục tại các khu vực đó. Washington cam kết: “Mọi cuộc
chiến đấu của chính quyền Pháp chống phát
xít ở bất kỳ vùng thuộc địa nào cũng sẽ nhận được sự ủng hộ không chỉ về tinh
thần mà còn cả sự hỗ trợ vật chất từ chính phủ Mỹ”[9].
Có thể thấy rằng, sự quan tâm của Mỹ đối với quyền cai trị
thuộc địa của Pháp xuất phát từ yêu cầu đảm bảo thắng lợi của phe Đồng minh
trước khối Trục, được giới hạn chủ yếu trong phạm vi bảo vệ những vùng đất này
khỏi sự chiếm đoạt của các nước phát xít, chứ chưa hẳn là sự thừa nhận hoặc
đồng ý với việc Pháp tiếp tục thống trị những lãnh thổ này khi chiến tranh kết
thúc. Vì lẽ đó, vào tháng 1-1943, trong cuộc họp Hội đồng Tham mưu trưởng liên
quân, Tổng thống F.D.Roosevelt tuyên bố rằng ông "đã rất hồ nghi về việc
khôi phục chế độ thực dân của Pháp ở Đông Dương"[10].
Tại Hội nghị Casablanca (10-1943),
Hội nghị Tehran (11-1943) và Hội nghị Cairo
(11-1943), vấn đề số phận thuộc địa của Pháp tiếp tục được đặt ra. Đặc biệt, ở
Hội nghị Cairo, F.D.Roosevelt đã đề xuất áp dụng tại Đông Dương chế độ quản thác
quốc tế và đã tìm được tiếng nói chung với Tưởng Giới Thạch về vấn đề độc lập của Đông Dương sau khi chiến tranh kết
thúc[11]. Chế
độ quản thác quốc tế đối với Đông Dương được F.D.Roosevelt nhắc lại một lần nữa trong buổi thảo luận với
các đại diện của Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập
và sau đó là trong Hội nghị Tehran. Thông báo cho I.V.Stalin về quan điểm của
Churchill- người ủng hộ việc khôi phục quyền kiểm soát của Pháp đối với các
thuộc địa, F.D.Roosevelt lưu ý: “Sau 100 năm thống trị của Pháp ở Đông
Dương, người dân nơi đây có cuộc sống ngày càng tồi tệ hơn trước”[12].
Trong
hai năm 1943-1944, vấn đề Đông Dương được F.D.Roosevelt
nhiều lần đề cập đến. Thảo luận về những vấn đề hậu chiến với Ngoại trưởng Anh
Anthony Eden (3-1943) hay trong tiếp xúc với Đại sứ Anh Halifax tại Washington
(1-1944), F.D.Roosevelt luôn nhắc đến kế hoạch ủy trị đối với Đông Dương và phê
phán chính sách thuộc địa của Pháp: “Người Pháp đã bòn rút nơi này 100 năm, các
dân tộc Đông Dương đáng được hưởng một cái gì đó tốt hơn thế"[13]; đề
nghị thay vào việc trao trả lại Đông Dương lại cho Pháp thì nên đặt Đông Dương
dưới sự ủy trị quốc tế và chuẩn bị cho nền độc lập của Đông Dương sau này. Tại
Hội nghị Yalta (2-1945), F.D.Roosevelt tiếp tục nhấn mạnh rằng, dưới sự cai trị
của người Pháp "Đông Dương đã không đạt được bất kỳ tiến bộ nào"; do
đó, chế độ quản thác quốc tế là một sự lựa chọn thích hợp[14]
và quan điểm này của Mỹ nhận được sự tán thành của Liên Xô- sự ủng hộ này là
rất quan trọng, nó làm tăng khả năng hiện thực hóa quan điểm này trong thực
tiễn.
Sáng
kiến thiết lập chế độ ủy trị quốc tế đối với Đông Dương của F.D.Roosevelt vấp
phải sự phản ứng quyết liệt của Anh (quốc gia sở hữu chuỗi thuộc địa lớn nhất
toàn cầu) và một số quan chức Mỹ. Sự phản đối này lớn dần lên khi cuộc chiến
chống lại Nhật Bản ngày càng cần huy động nhiều nhân lực, vật lực trong khi
Pháp có thể đáp ứng phần nào yêu cầu này. Bên cạnh đó, Ủy ban An ninh quốc gia
Mỹ cũng cho rằng, việc Pháp khôi phục chế độ thuộc địa “góp phần làm nó trở nên
lớn mạnh hơn và đó là một đối trọng tốt trước nước Nga cộng sản, có lợi cho
chính sách hậu chiến của Washington trong thế đối đầu với Moscow”[15].
Ngoài ra, một số quan chức cấp cao của Washington còn muốn tránh những va vấp
và xung đột không cần thiết với nước Anh chỉ vì Đông Dương khi Hoa Kỳ còn cần
đến sự ủng hộ của quốc gia này trong nhiều vấn đề quốc tế khác.
Dưới những
áp lực nêu trên, F.D.Roosevelt buộc phải nhượng bộ và trong cuộc họp báo vào
tháng 2-1945, đã điều chỉnh chủ trương ủy trị quốc tế đối với Đông Dương, mở
rộng thành phần tham gia, đồng ý để Pháp có mặt trong Hội đồng ủy trị quốc tế
với điều kiện Pháp coi độc lập của Đông Dương là mục tiêu chính[16].
Cũng từ thời điểm này cho đến khi ngã bệnh và mất (4-1945), Tổng thống F.D.Roosevelt
không còn trở lại với yêu cầu thiết lập chế độ quản thác quốc tế đối với Đông
Dương cũng như thôi không theo đuổi kế hoạch tương lai của Đông Dương, đẩy nó lùi
vào những vấn đề hậu chiến: “Tôi không muốn dính líu vào bất cứ quyết định nào
về Đông Dương. Vấn đề này cần giải quyết sau khi chiến tranh kết thúc”[17].
Tương tự, F.D.Roosevelt cũng không muốn thúc đẩy các nỗ lực quân sự để giải
phóng Đông Dương khỏi sự thống trị của Nhật Bản, giải thích rằng tất cả các
nguồn lực cần được tập trung cho chiến tranh Thái Bình Dương.
Như vậy, dù rất cố gắng, song F.D.Roosevelt đã
không thể đưa ra những giải pháp dứt điểm cho số phận Đông Dương hậu chiến.
Người ta cũng nhận thấy rằng, dù nhiều lần nhắc đến chế độ quản thác quốc tế
đối với Đông Dương, song trên thực tế, F.D.Roosevelt đã không hành động quyết
liệt. Nhà nghiên cứu Sanford B. Hunt cho biết: “Không có một bằng chứng nào cho
thấy Tổng thống F.D.Roosevelt từng ra lệnh hoặc yêu cầu soạn thảo các kế hoạch cụ thể nhằm thiết lập chế
độ ủy trị cho Đông Dương”[18].
- tác giả cuốn sách “OSS và Hồ Chí Minh:
Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật” gọi kế hoạch quản thác quốc tế cho Đông
Dương của F.D.Roosevelt là một kế hoạch lỏng lẻo, dù đó là kế hoạch mà thông
qua đó, F.D.Roosevelt hy vọng nó “sẽ cho phép Mỹ
thiết lập các căn cứ hải quân, không quân dài hạn tại những vị trí chiến lược
trên Thái Bình Dương và bất kỳ những nơi không tồn tại mối ác cảm truyền thống
đối với quan điểm chính trị dựa vào sức mạnh của Mỹ"[19]. Gabriel Kolko thì khẳng định
rằng, việc loại bỏ quyền lực của Pháp tại các thuộc địa được thúc đẩy bởi mong
muốn trừng phạt sự hợp tác của Pháp với Đức và Nhật Bản, hơn là vì một niềm tin
thực sự vào giá trị nội tại của tự do cho Việt Nam[20]. Ý
tưởng về ủy thác quốc tế đối với Đông Dương quả thực là mong manh và nó càng
trở nên dễ vỡ trước áp lực được các đồng minh của nước Mỹ bền bỉ tạo ra cũng
như sức nặng ngày càng lớn các lợi ích quốc gia Mỹ, để cuối cùng nó lặng lẽ
chết cùng với sự ra đi của F.D.Roosevelt.
3- Sau cái chết của F.D.Roosevelt, người kế
nhiệm H.S.Truman từng bước điều chỉnh chính sách đối ngoại; theo đó, H.S.Truman
đã xem xét lại một cách căn bản ý tưởng thiết lập chế độ quản thác quốc tế đối
với Đông Dương của F.D.Roosevelt. Mỹ dần thay đổi
thái độ, trở nên mềm mỏng hơn và Ngoại trưởng Mỹ E.R.Stettinius đã khẳng định với Ngoại trưởng
Pháp Georges Bidault như sau: "Mỹ chưa từng đặt vấn đề
nghi ngờ chủ quyền của pháp ở Đông Dương mặc dù một số chính giới ở Mỹ có chỉ
trích chính sách trước đây của Pháp đối với khu vực này"[21]. Tháng 2- 1945, tại Hội nghị Yanta, Mỹ (và cả Liên
Xô) tuyên bố không nhất thiết phải áp dụng chế độ ủy trị quốc tế đối với các
thuộc địa của các nước đế quốc[22].
Tuy nhiên, cần ghi nhận rằng, dù từ bỏ chính sách loại người Pháp ra
khỏi mảnh đất này, bỏ qua những nỗ lực mà Tổng thống F.D.Roosevelt theo đuổi
một thời gian dài trong giải quyết vấn đề Đông Dương, song Washington vẫn mong
muốn Pháp trao cho Đông Dương quyền tự trị[23].
Trong Hội nghị thành lập Liên Hợp Quốc (8-5-1945), tuyên bố không phản đối chủ
quyền Pháp ở Đông Dương, song Bộ Ngoại giao Mỹ yêu cầu Pháp cải thiện điều kiện
chính trị, kinh tế ở bán đảo này, bày tỏ hy vọng sớm nhìn thấy một Đông Dương tự
trị. Tại Hội nghị Potsdam (7-1945), sự lập lờ nước đôi của Hoa Kỳ về Đông Dương
được chứng thực bởi quyết định cho phép người Anh giải giáp quân đội Nhật ở
Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở vào phía Nam. Điều đó cũng có nghĩa là đã tạo ra
một đảm bảo chắc chắc từ phía các nước Đồng minh đối với sự trở lại Đông Dương
của người Pháp, bởi hơn ai hết, Anh luôn là nước trung thành với quan điểm duy
trì chế độ thuộc địa cũng như luôn ủng hộ Pháp trở về lãnh địa Đông Dương- trên
lập trường ấy, việc Anh giúp Pháp tái chiếm Đông Dương là tất yếu.
Tháng
8-1945, Chính phủ Hồ Chí Minh nắm quyền lãnh đạo đất nước, tuyên bố thành lập nước VNDCCH. Trước đó, sớm nhận
thấy vai trò của Mỹ trong giải quyết các vấn đề quốc tế, ngay từ năm 1944, Hồ
Chí Minh đã thiết lập quan hệ với tổ chức Office of Strategic Services (OSS)
của Mỹ đang hoạt động ở miền Nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam, hy vọng rằng
hợp tác với Hoa Kỳ có thể mang lại sự ủng hộ của Washington đối với vấn đề độc
lập của Việt Nam sau chiến tranh. Sau khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi, tin
tưởng ở thiện chí của nước Mỹ, Chính phủ Hồ Chí
Minh đã liên tiếp gửi công hàm, thư, điện đến Tổng thống H.S.Truman và Ngoại
trưởng G. Byrnes, đề nghị can thiệp, buộc Anh chấm dứt những hành động vi phạm
quyền dân tộc của Việt Nam, yêu cầu người Anh thực hiện những nguyên tắc tự do,
tự quyết của Hiến chương Đại Tây Dương[24].
Không dưới một lần, Hồ Chí Minh đề nghị nước Mỹ với tư cách là những chiến sĩ bảo vệ công bằng thế giới có những
bước đi quyết định ủng hộ nền độc lập của Việt Nam. Đặc biệt, để tranh thủ sự
ủng hộ của Mỹ cũng như một số nước khác, “phá tan tất cả những điều hiểu lầm ở
ngoài nước và ở trong nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng của nước nhà”[25],
Đảng cộng sản Đông Dương đã tuyên bố tự giải tán (11-1945); đồng thời, Hồ Chí
Minh tranh thủ mọi cơ hội để bày tỏ với Mỹ về việc Việt Nam hy vọng sự giúp đỡ
từ nước này hơn là từ Liên Xô[26].
Trước những yêu cầu khẩn thiết của Chính phủ
Hồ Chí Minh, phản ứng của Mỹ là khá bất lợi -Washington đã im lặng. Cánh cửa hy
vọng của Việt Nam DCCH từ phía Mỹ đã bị khóa chặt, bởi tin tức OSS gửi về (OSS có mặt tại Hà
Nội khi Việt Minh giành chính quyền) đã khẳng định chắc chắn đây hoàn toàn là một tổ chức cộng sản[27],
trong khi từ tháng 8-1945, nước Pháp không ngừng hứa hẹn sẽ cho phép cả
Mỹ và Anh tiếp cận, khai thác các nguồn lực kinh tế của Đông Dương sau khi Pháp
quay trở lại[28]. Và
việc gì đến đã phải đến - vào cuối tháng 8-1945, Tổng thống H.S.Truman chính
thức tuyên bố với Tổng thống Pháp Charles de Gaulle đang ở thăm Washington rằng,
Hoa Kỳ ủng hộ sự trở lại Đông Dương của Pháp[29].
Quyết định này của Nhà Trắng được đánh giá là một trong những quyết định có
tính định hình tiến trình lịch sử thế giới và khu vực Đông Nam Á trong nhiều
thập kỷ sau đó.
Tháng 9-1945, thực hiện
nhiệm vụ vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật Bản theo quyết định của Hội nghị
Potsdam, quân đội Anh đã tái vũ trang cho tù binh Pháp. Ngày 23-9-1945, được người
Anh hậu thuẫn, quân đội Pháp đánh chiếm Sài Gòn, thực hiện cuộc tái chiếm Việt
Nam và Đông Dương. Sự thay đổi thái độ của Mỹ đối với Đông Dương đã tạo ra những
điều kiện thuận lợi nhất định cho Pháp quay trở lại nơi này, nhất là khi Pháp
có được sự giúp đỡ của người đồng cảnh ngộ và đồng lợi ích trên vấn đề thuộc địa
là nước Anh. Cần nói thêm rằng, dù không chống lại việc Pháp tái lập quyền thống
trị đối với Đông Dương, song Mỹ vẫn e ngại quyết định này làm vấy bẩn hình ảnh
một nước Mỹ phản đối chính sách thực dân; do đó, tháng
10-1945, khi tuyên bố “không phản đối việc tái lập quyền kiểm soát Đông Dương của
Pháp”[30],
Mỹ đồng thời khẳng định không ủng hộ người Pháp thiết lập quyền thống trị đối với
Đông Dương bằng vũ lực, chỉ chấp nhận cho Pháp lập lại sự kiểm soát ấy
trên cơ sở có được sự ủng hộ của dân chúng Đông Dương. Có vẻ như Mỹ giữ thái độ
trung lập, không chấp nhận chính quyền Việt Nam DCCH cũng không giúp Pháp đánh
chiếm Đông Dương để bảo toàn vị thế quốc gia luôn ủng hộ thiết lập một thế giới
công bằng, song về bản chất, thái độ trung lập đó khi đặt trong bối cảnh của một
cuộc đối đầu không cân sức thì thực ra Mỹ đã nghiêng hẳn về phía kẻ mạnh. Thật
vậy, phân tích những diễn tiến trong thái độ của Mỹ đối với Đông Dương, Đô đốc
Anh Mountbatten đã chắc nịch khẳng định với Tướng Leclerc: “Với cái chết của
Roosevelt, Pháp có thể quay trở lại Đông Dương, vấn đề quản thác quốc tế cho
Đông Dương đã trở thành vô nghĩa”[31]. Tin tưởng ở những chuyển biến có lợi cho mục
tiêu quay trở lại Đông Dương, Tổng thống Pháp Charles de D Gaulle tuyên
bố: "Lập trường của Pháp về Đông Dương rất đơn giản: Pháp có ý định thu hồi
chủ quyền của mình trên toàn Đông Dương. Dĩ nhiên là sự khôi phục đó sẽ kéo
theo một thể chế mới, nhưng đối với chúng tôi, chủ quyền của Pháp là vấn đề
hàng đầu"[32].
Nhận định về sự thay
đổi trong chính sách của Mỹ đối với Đông Dương từ tháng 2-1945, George Herring
cho rằng đó là kết quả của những tính toán nhằm nhận được sự hỗ trợ mang tính
đòn bẩy của Pháp trong cuộc chiến chống Liên Xô[33].
Không chỉ có vậy, trong khi mạnh mẽ tuyên bố về quyền tự quyết dân tộc, Hoa Kỳ còn
bị ràng buộc bởi các mối quan hệ với những đồng minh châu Âu- những quốc gia sở
hữu số lượng lớn thuộc địa, đã và đang làm giàu từ những mảnh đất màu mỡ ấy. Chịu
tác động, chi phối bởi diễn biến của cuộc Chiến tranh Lạnh cũng nhu cầu củng cố
quan hệ đồng minh để đối phó với một thế giới cộng sản đang mở rộng hàng ngày,
hàng giờ và tham vọng chiến lược của Liên Xô ở châu Âu, Hoa Kỳ khó có thể hành
động dứt khoát hơn. Thái độ của Washington đối sự việc Pháp tái chiếm Việt Nam
còn được đặt dưới lăng kính của các vấn đề châu Âu, nhất là Paris đã một vài lần
ý tứ đề cập đến việc rút lui khỏi Kế hoạch Marshall nếu không được bật đèn xanh
cho việc trở lại Đông Dương vô điều kiện[34]. Ngoài
ra, Mỹ còn lo ngại rằng thoát ra khỏi chế độ thuộc địa, các quốc gia mới giành
độc lập có thể nhận sự hỗ trợ từ Liên Xô, rơi vào vùng ảnh hưởng của khối cộng
sản –điều đó chắc chắn dẫn đến những thay đổi trong cán cân lực lượng nghiêng về
phía có lợi cho Liên Xô; đồng thời, đánh mạnh/làm giảm các nguồn lực kinh tế của
các đồng minh của Mỹ, khiến thế giới tư bản bị thu hẹp và suy yếu. Các phong
trào đấu tranh đòi độc lập diễn ra liên tiếp, sôi nổi, mạnh mẽ trên nhiều khu vực
của thế giới càng củng cố thêm mối lo ngại này của Hoa Kỳ và một nước Việt Nam
cộng sản không phải là sự lựa chọn của Washington vào thời điểm đó cũng như nhiều
năm sau này.
Viết về cuộc chiến
tranh Đông Dương lần thứ nhất, nhiều nhà nghiên cứu thường đề cập đến “một nền
hòa bình bị bỏ lỡ”. Một câu hỏi được đặt ra là: Từng có hay không một nền hòa
bình bị bỏ lỡ? Câu trả lời là không khi đặt các chủ thể có liên quan trực tiếp
và có vai trò quyết định đối với nền hòa bình ấy trên một trục tham chiếu: Pháp
không bao giờ chịu từ bỏ Đông Dương, Việt Nam DCCH lựa chọn con đường giải
phóng dân tộc, đi tới độc lập, tự do dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác –Lênin, còn
Mỹ thì bị ám ảnh bởi bóng ma của chủ nghĩa cộng sản và dẫn dắt bởi niềm tin tuyệt
đối phải chống lại bóng ma ấy.
Có một thực tế là những
thay đổi trong thái độ của Mỹ về vấn đề Đông Dương đã để lại những hệ lụy căn bản
và lâu dài. Hy vọng về việc “Mỹ sẽ kiềm chế ý đồ tái chiếm Việt Nam của thực
dân của Pháp” mà Hồ Chí Minh đã nhiều lần bày tỏ đã không thành hiện thực. Với
vai trò nước lớn, có ảnh hưởng quốc tế sâu rộng, nếu (dù lịch sử là không có chữ
“nếu”) vào thời điểm quyết định đó, nước Mỹ có những nhận thức đầy đủ, toàn diện,
sâu sắc về tình hình Đông Dương, về đặc điểm văn hóa, về tinh thần dân tộc, về
khát vọng tự do của người Việt Nam để đưa ra những quyết sách theo hướng khác
thì có lẽ Việt Nam đã sớm thấy một nền độc lập và rất có thể nước Mỹ đã tránh
được một cuộc chiến tranh vô nghĩa, tốn kém, bi thảm, dài đằng đẵng 21 năm sau
đó ở Việt Nam. Về phía Việt Nam DCCH, nhìn lại bức tranh độc lập của nhiều nước
Đông Nam Á, con đường đã đi có phải là duy nhất? Câu chuyện về viễn kiến và tầm
nhìn trong lựa chọn/quyết định vẫn đang là một dấu hỏi của lịch sử.
[1] Báo Sự thật, số 32, ngày 20 - 4-1946
[2] Charter of
the United Nations, United Nations,
http://www.un.org/en/charter-united-nations/index.html
[3] : The OSS and Ho
Chi Minh: Unexpected Allies in the War against Japan, University Press of Kansas, 2006,
p.197.
[4] : The OSS and Ho Chi
Minh, Ibid, p.199.
[5] : The OSS and Ho Chi Minh, Ibid, p.199.
[6] The Pentagon Papers Gravel Edition (Chapter I, "Background to the
Crisis, 1940-50”), Volume 1, Boston: Beacon Press, 1971.
[7] The Pentagon Papers Gravel Edition, Ibid.
[8] Kết quả là Nhật Bản bị mất ¾ quan hệ kinh tế
-thương mại với nước ngoài; mất 88 % lượng dầu nhập khẩu dẫn đến dự trữ dầu của Nhật Bản chỉ đủ dùng cho ba năm thời bình hoặc 1,5 năm thời
chiến.
[9] The Secretary of State to the Ambassador in France// Foreign
Relations of the United States (FRUS), 1942. Vol. II. Wash, 1962, p. 124.
[10] Hess G. R: Franklin
Roosevelt and Indochina, The Journal of American History, 1972, Vol. 59, №
2, p.355.
[11] Foreign Relations of the United States, The
Conferences at Cairo and Tehran,
1943, Wash, 1961, p. 325.
[12] Foreign
Relations of the United States, The Conferences at Cairo and Tehran,
Ibid, p. 485.
[13] foreign Relations of the united States 1944, Government Printins
Office, Washington, D.C., 1965, Vol III, p. 773.
[14] United States
Department of State: Foreign relations of
the United States. Conferences at Malta and Yalta, 1945, U.S. Government
Printing Office, 1945, p.770.
[15] Smith T. O: Churchill, America and Vietnam, 1941- 1945, Palgrave Macmillan UK,2011, p.12.
[16] Thomas G. Paterson and
Dennis Merrill (Edited): Major Problems in American Foreign
Policy, Volume II: Since 1914, 4th edition, Lexington, MA: D.C.
Heath and Company, 1995, p. 190.
[17] Hess G. R: Franklin Roosevelt and Indochina, Ibid,
p.363.
[18] Sanford B. Hunt, IV,
B.A: Dropping the baton: decisions in
United States policy on Indochina, 1943-1945, A
Thesis in History, Texas Tech University, p.97.
[19] : The OSS and Ho Chi Minh: Unexpected Allies
in the War against Japan, Ibid,
p.201.
[20] Gabriel Kolko: The United States in Vietnam 1944-66: Origins and
Objectives of an Intervention Objectives of an Intervention, Outsider Insight, 2014, p.15.
[21]U.S. Department of
State: Foreign Relations of the United
States, Government Printing Office, Vol VI, Washington, D.C 1970, p.307.
[22] United States
Department of State: Foreign relations of
the United States. Conferences at Malta and Yalta, 1945, Ibid, p.977.
[23] William Conrad
Gibbons:The U.S. government and the
Vietnam war, Excutive and Legislative roles and relationships, part I,
1945-1960, Princeton University press, Princeton, New Jersey, 1986, p.21.
[24] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia
– Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.137.
[25] Đảng cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.19.
[26] William J. Duiker:Ho Chi minh, A life, Hyperion, New York,
2000, p.366.
[27] Office of the
Secretary of Defense: United States -
Vietnam Relations 1945 - 1967 (The Pentagon Papers), Volume 1, Nimble
Books, 2011, p.66.
[28] Gabriel Kolko: The United States in Vietnam 1944-66: Origins and Objectives of an
Intervention Objectives of an
Intervention, Ibid, p.18.
[29] Gabriel Kolko: The United States in Vietnam 1944-66: Origins and Objectives of an
Intervention Objectives of an
Intervention, Ibd, p.19.
[30] The Pentagon Papers Gravel Edition, Ibid.
[31] The Pentagon Papers Gravel Edition, Ibid.
[32] De Gaulle bluntly
reaffirms French position in Indochina, End Of
Empire.asia.
[33] George S. Herring, "The Truman Administration and the
Restoration of French Sovereignty in Indochina", Ibid, p.112.
[34] America’s Vietnam War in Indochina, us.history.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!