Trần Đức
Thảo thuộc “thế hệ vàng” trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp
của ông gắn liền với những bàn luận, tranh cãi mâu thuẫn, thậm chí đối lập nhau.
Năm 1951,
để lại đằng sau kinh thành Paris hoa lệ, chọn đứng
về “phe nước mắt”, quyết định trở về nơi chiến tranh và cách mạng đang diễn
ra cuồng nhiệt, nóng bỏng đến độ trần trụi, hy vọng
tìm thấy một con đường cho triết học cũng như thực tại, có lẽ Trần Đức Thảo không bao giờ tưởng tượng ra
rằng, hiện thực không giàu chất thơ và sự dã
man của chính trị là khôn cùng…
1- “Tai
bay vạ gió” vì khát vọng
Khi Trần Đức Thảo trở
về Việt Nam qua ngả Trung Quốc, một cán bộ giỏi cả tiếng Quảng Đông và Quan thoại
là Trần Lâm được cử đi đón ông. Dọc đường, hai người thường xuyên tâm sự và trở
nên thân thiết như anh em. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ và “bàn giao” Trần Đức
Thảo cho “cấp trên”, Trần Lâm nhận được yêu cầu phải báo cáo tỉ mỉ, chính xác,
không thiếu dù chỉ một chi tiết nhỏ toàn bộ những gì hai người đã trao đổi lúc
đi đường. Hy vọng có thể làm cho cách mạng chú ý tới tài năng và trọng dụng Trần
Đức Thảo, Trần Lâm thành thật nhận xét Trần Đức Thảo “là người có học thức, có
trình độ suy nghĩ cao, rất có tinh thần yêu nước, có lý tưởng trong sáng, rất
mong được phục vụ cách mạng”[1].
Đánh giá cao Trần Đức Thảo, Trần Lâm khẳng định đây là người luôn “ao ước được
góp tim, óc để xây dựng một cuộc cách mạng huy hoàng ở quê hương, để có thể làm
một mẫu mực cho các nước đang tranh đấu giành độc lập cho Tổ quốc và dân tộc của
các nước bị trị”[2].
Bản báo cáo ấy được
mang đọc cho cố vấn Trung Quốc, “các đồng chí cố vấn” ghi vào đó cảm nghĩ rồi hỏa
tốc gửi về Trung ương. “Trung ương” không chỉ không hài lòng vì “một kẻ chưa hề
sống với cách mạng một ngày mà dám mưu tính về dạy người của cách mạng làm cách
mạng”[3],
mà còn nêu nghi vấn Trần Đức Thảo có thể “là người do thực dân gián tiếp đưa về,
là một thứ siêu gián điệp trí thức mà thực dân mưu toan cài vào hàng ngũ cách mạng”[4].
Kết quả là khát khao
xây dựng “một mô hình cách mạng hoàn chỉnh, trong sáng và nhân đạo mà cả loài
người chờ đợi”[5] của
Trần Đức Thảo bị quy là “ý đồ chính trị độc hại!”. Thay vì đưa Trần Đức Thảo về
trường Đại học ở Khu Tư, người ta lệnh đưa ông về An toàn khu ở gần Trung ương để
dễ bề kiểm soát.
Một ước mơ nhân bản
có phần mộng mị được rưới thêm một chút nước sốt ca ngợi đầy thành ý của Trần
Lâm thoắt cái đã biến thành sợi dây oan nghiệt, thít chặt một cách không thương
tiếc cuộc đời và số phận triết gia tài danh. Trần Đức Thảo chua chát kết luận:
“Sự nghi ngờ của lãnh đạo khi đi xuống tới cấp thừa hành thì nó đã trở thành một
xác định”[6].
Ông chỉ còn được phân làm mấy việc vớ vẩn như dịch những tài liệu cũ kỹ vô tác
dụng, hoặc được cử theo chân một vài phái đoàn thanh tra Trung ương như một vật
trang trí. Trần Đức Thảo biết rằng mình đã bị biến thành thứ tô điểm, trang
hoàng, quảng bá để bên ngoài nhìn vào tưởng chế độ “có nền tảng đoàn kết quốc
gia và dân chủ rộng rãi”[7].
Ông buộc phải đi tiếp con đường đã chọn nhưng với hình hài “bù nhìn đứng giữa
ruộng dưa”.
Bằng một cú hích tàn
nhẫn, hiện thực đã kéo triết gia đang lơ lửng trong những khát vọng đem “hiểu biết đúng” của mình, đem ánh sáng tinh thần lành
mạnh, sâu sắc nhen góp cho sự tiến bộ của đất nước, buộc phải đặt chân
xuống mảnh đất bỏng rẫy than hồng, lởm chởm gai góc và đá tai mèo sắc nhọn. Từ
đây, trên mảnh đất ấy, dù không là kẻ tuẫn nạn, song mỗi bước chân ông đi đều rớm
máu. Ông bắt đầu lờ mờ hiểu ra rằng, nhân tài không thể và không bao giờ có chỗ
đứng trong vương quốc tôn thờ chủ nghĩa độc quyền chân lý.
2- Chủ nghĩa lý lịch và thói dối trá
Chưa
hết bàng hoàng bởi cú sốc vì mộng ước “hoàn toàn tan vỡ ngay từ đầu khi chưa đặt
chân trở lại mảnh đất quê hương”[8],
Trần Đức Thảo đã phải đối diện ngay với một thứ chủ nghĩa man rợ - chủ nghĩa lý lịch.
Trở về từ trời Tây, chân ướt, chân ráo xuống tới
Nam Ninh
(Trung Quốc), Trần Đức Thảo được một cán bộ quân sự tên Hùng tới hướng dẫn làm
hồ sơ trước khi “hành quân” về nước. Cầm trên tay bản “Tự khai”, “Trích ngang”, bộ óc triết học nổi tiếng
thông tuệ bỗng đông cứng, chuyển từ trạng thái choáng váng sang kinh
hoàng, lo sợ. Nếu như bản “Trích ngang” rối rắm có 15 cột[9]
cùng khá nhiều nội dung vô nghĩa, vô giá trị đối với phẩm giá và nhân cách con
người, thì bản “Tự khai” thực chất là
một văn bản phản giá trị khi nó yêu cầu “đánh giá, tố cáo tất cả mọi người thân
thích từ mấy đời trong đại gia đình bao quanh mình”[10].
Khó có lời lẽ, ngôn từ
nào có thể diễn tả được tâm trạng rối bời và hoảng loạn của Trần Đức Thảo lúc
đó. Những câu hỏi nhức nhối cứ quay cuồng trong đầu óc triết gia: Có thật sự cần
thiết phải phán xét công tội đối với cách mạng của cả bố mẹ, ông bà nội ngoại,
anh em họ hàng…? Liệu có người nào đó muốn bao che cho bố mẹ, họ hàng? Liệu có
thể lợi dụng tố giác để làm hại người mình ghét?
Những giải thích mang
tính “khai trí” cho Trần Đức Thảo của người cán bộ tên Hùng khiến ông bất ngờ
và sửng sốt: Phán xét là “cách chứng tỏ mức độ giác ngộ cách mạng của mình. Nó
giúp cách mạng đánh giá bản thân người khai”[11];
“vì ai cũng muốn tỏ lòng thành với cách mạng, nên có khi họ còn cố khai khống
lên là có bố mẹ, ông bà là thành phần phản động để có cơ hội lên án, để tỏ vẻ
là mình đã khai rất thành khẩn!”; “cách mạng bảo mình khai thế thì cứ thế mà
làm. Còn chuyện lo ngại làm hại người khác, hay lo có thể khai gian dối v v…
thì để cách mạng xét. Ta đã theo cách mạng, theo “đảng” thì để “đảng” suy xét hộ
ta”[12].
Chỉ
bằng bấy nhiêu lời lẽ, một cách vô tình, không trực tiếp, người cán bộ tên Hùng
đã chạm tới tầng sâu bản chất sự việc, “hồn nhiên” gọi tên, chỉ mặt những tha hóa đạo đức sinh ra từ những lề luật,
những quy tắc vụn vặt
song lại có sức nặng ngàn cân để nắm lấy, kiểm soát và kiềm tỏa từng con người.
Ẩn đằng sau thứ chủ nghĩa lý lịch mà Trần
Đức Thảo hoàn toàn xa lạ là một thực tại nham nhở đến đau đớn, hãi hùng: Thói
gian dối, đạo đức giả, thói a dua, hèn hạ đạp lên quá khứ, chối bỏ nguồn
cội, phản bội chính mình…tất cả chỉ để được “cách mạng” ưu ái hoặc thậm chí chỉ
để được yên thân.
Bứt khỏi căng thẳng
và ngột ngạt, con người lý tính trong Trần Đức Thảo lên tiếng đối thoại với
chính mình: “Trong thâm tâm ta có thấy bố ta đáng bị lên án là kẻ làm “tay sai
cho Pháp” hay không?”; “Cảnh giác cách mạng buộc ta phải chơi trò dối trá?”; “Cứ
nói dối như mọi người thì có lợi cho ta không? Thì ta có còn là ta không?”[13].
Tư duy, luận giải một cách logic, chặt chẽ, gẫy gọn, con người lý tính kết luận:
“Khai và lên án bố thực ra là đã nói dối, mà là nói dối với chính ta! Dù đây là
một sự nói dối bắt buộc nhưng vẫn là nói dối, dù cho cách mạng muốn vậy, bắt phải
làm như vậy!”; “khai khống như vậy là cách mạng dạy ta xảo trá!”[14].
Cuối cùng, bất chấp lời khuyên “phải lên án mạnh
mẽ cha mẹ họ hàng đã từng đi theo phong kiến, chạy theo thực dân!” của người
cán bộ tên Hùng, con người đạo đức trong Trần Đức Thảo quyết định không đi theo
lối mòn của đám đông nhút nhát được chăn dắt. Dù biết rằng mình đang làm một điều
cực kỳ nguy hại cho bản thân, bước vào con đường chông gai mà tất thảy mọi người
đều muốn tránh, Trần Đức Thảo vẫn dứt khoát không “bắt đầu bằng thái độ cúi đầu
nói dối, khai man”. Bản “Tự khai” của
Trần Đức Thảo được viết ra với tất cả tấm lòng thành thật, khai đúng những gì
ông biết, ông nghĩ, ông tin, không núp dưới mác “giác ngộ cách mạng” mà lừa dối
chính mình, mà “xỉ vả ông bà, cha mẹ” - những người, như Trần Đức Thảo giải
thích, “đã dạy tôi nên người lương thiện, yêu nước, yêu đồng bào, yêu Tổ quốc…”[15].
Thay vì khai lý lịch
theo kiểu tỏ ra “giác ngộ cách mạng”, Trần Đức Thảo viết một bản “Tự bạch” - một bài luận kín bốn trang của
tờ đôi vở học trò, giải thích sự thành thực của mình, nêu rõ quan điểm không thể
nhắm mắt lên án quá khứ chỉ vì chưa có ý thức cách mạng. Ông phân tích: “Thời
đó tổ tiên dân tộc đã biết tạo ra bao nhiêu thế hệ sống lương thiện, biết xây dựng
những con người dũng cảm, đã biết tạo dựng và biết bảo vệ non sông gấm vóc, Tổ
quốc vinh quang… mà ngày nay không ai có thể chối bỏ dĩ vãng lịch sử, chối bỏ
non sông gấm vóc và Tổ quốc này”[16].
“Tổ chức” quyết định
gửi hồ sơ của Trần Đức Thảo về Trung
ương với dòng chữ: “Hồ sơ chưa hoàn tất
vì lý do đặc biệt, đang chờ Trung ương cứu xét”. Còn đang trong nghi án
“siêu gián điệp trí thức” lại mắc thêm cái tội “ngoan cố, cứng đầu”, không chấp
nhận khuôn mặt ma quái của
“giác ngộ cách mạng” theo lối “nói và làm đúng theo yêu cầu của cách mạng”[17],
số phận của Trần Đức Thảo coi như đã được định đoạt. Sau cơn địa chấn với “giấc
mơ vỡ vụn”, hiện thực tàn nhẫn lạnh lùng phóng tay châm lửa thiêu cháy rụi chút
hy vọng mong manh còn sót lại nơi triết gia đã đánh
cược đời mình hòng thắp lên những tư tưởng đúng với lương tri, thấm đẫm
sự thật.
Thoát ra khỏi vòng
xoáy gọt mình dối trá để đáp ứng “Tổ chức”, song Trần Đức Thảo đã không thoát
khỏi những cái vòi bạch
tuộc bền bỉ, dai dẳng quấn chặt, trói buộc từng cá nhân, không thoát khỏi cỗ
máy xay cần mẫn nghiền nát rồi nhào nặn, đúc khuôn những hình hài, buộc chúng
phải thuộc về và lẫn trong đám đông, không đi chệch đám đông và không đi xa hơn
đám đông. Định mệnh đã an bài cho ông một con đường đau khổ chỉ vì ông có chính
kiến, có tư duy độc lập và phê phán. “Cách mạng” không cần những đầu óc độc
đáo, những góc nhìn tỉnh táo, những tâm hồn mạnh mẽ. “Cách mạng” cần “nghe” và
“thực hiện” hơn là “sáng tạo” và “phản biện!
Tuy
nhiên, đó vẫn chưa phải là tất cả. Hiện tại nghiệt ngã vẫn chưa thôi cười cợt
nhà Hiện tượng học uyên bác về lý luận, nhưng lại ngây thơ, cả tin trong thực
tiễn. Vị đắng dằn vặt, day dứt, chua xót nhấn chìm nội tâm vẫn còn ở phía trước…
3- Con sóng dữ cải
cách ruộng đất
Có lẽ một trong những sự kiện để lại dấu ấn nặng nề nhất
trong ký ức và tâm khảm Trần Đức Thảo là cuộc cải cách ruộng đất theo mô hình
thổ cải của Trung Quốc mà ông buộc phải tham gia và trở thành chứng nhân bất đắc
dĩ.
Ngay từ hôm đầu tiên tiếp xúc với những từ “lạ tai” như
“bắt rễ”[18],
“xâu chuỗi”[19] trong
công việc của đoàn cải cách ruộng đất tại Chiêm Hoá (Tuyên Quang), ở Trần Đức
Thảo đã nảy sinh những thắc mắc về đạo lý, công lý. Ông nhận thấy ngay rằng, phương
pháp cải cách này là kết quả của tư duy méo mó được Lenin và Mao tùy tiện khai
triển, đẩy nó đi xa một cách hết sức nguy hiểm so với những gợi ý đấu tranh
giai cấp của Marx.
Theo như Trần Đức Thảo mô tả, cải cách ruộng đất được
chia thành nhiều “công đoạn” khác nhau, từ “động viên, giáo dục bần cố nông” tức
là dạy cho họ biết “hạch tội, trừng trị”, thậm chí bịa tội cho giai cấp được
coi là từng “cưỡi lên đầu lên cổ”, “bóc lột, hành hạ, đánh đập bần cố nông từ đời
này qua đời khác”, cho đến dám đưa tay đấm thẳng vào mặt những “kẻ thù giai cấp”
ấy. Trần Đức Thảo nhận xét: “Sự thành công của công tác cải cách ruộng đất tùy
thuộc vào tài tổ chức, động viên và huấn luyện bần cố nông thành những nhân chứng
luận tội nhân dân, để nhân dân biết vùng
lên tiêu diệt giai cấp đã bóc lột họ”[20].
“Tài tổ chức, động viên và huấn luyện” ở đây được hiểu là “tài” kích động tinh
thần bần cố nông, là “tài’ sử dụng phương pháp kích thích hận thù để họ có ý
chí căm thù cao độ, biến hận thù thành hành động, thẳng tay trừng trị, tiêu diệt,
đòi xử tử “những tên nặng tội nhất, ngoan cố nhất, có nợ máu nhiều nhất với
giai cấp bần cố nông”. Động lực kích thích bần cố nông chính là “quả thực” - càng
vạch mặt chỉ tên cũng như trừng trị được càng nhiều thành phần phản động thì
càng tịch thu được nhiều của cải, ruộng đất, nhà cửa và họ càng được chia nhiều
những thứ tịch thu được. Bằng cách ấy, “người cách mạng” chẳng những không bài
trừ cái xấu, cái hủ lậu như sứ mệnh họ hằng tuyên truyền, mà còn góp phần cài cấy
những mầm mốc độc ác, dối trá, thậm chí “bón thúc”, ươm trồng để chúng nảy nở,
sinh sôi.
Bệnh quan liêu, thành tích, thờ ơ, vô cảm đã xuất hiện
ngay từ ngày ấy khi để hoàn thành nhiệm vụ, người ta đã “đôn” những hộ nông dân
có vài mẫu ruộng đủ ăn lên thành phú nông. Với “nỗ lực” của đội cải cách, ở cái
làng quê nghèo xác xơ quanh năm ăn độn, dân thưa thớt, ruộng đất phân tán, chen
lấn quanh núi rừng, người ta cũng đã “lôi” ra được sáu địa chủ, trong đó có một
bà cụ tuổi ngoài sáu chục, là mẹ bộ đội đóng lon trung úy của “Trung đoàn Thủ
đô”.
Sau một tuần lễ chuẩn bị, phiên toà đấu tố được tổ chức vào
khoảng hai giờ trưa, tại sân gạch lớn của đình làng dưới trời nắng chói chang với
la liệt biểu ngữ lên án “bọn” trí, phú địa hào, quy “chúng” là “tàn dư phong kiến,
thực dân, là kẻ thù của giai cấp công nông, là kẻ phá hoại xã hội, là kẻ nối
giáo cho giặc…”[21]. Bàn
chủ toạ được đặt phía trong đình làng, trên sân là một cột cờ cao sáu thước và
một hàng cọc tre dành cho tội nhân. Ngay bên trái đình là một mô đất nâu sậm mới
đắp cùng một hàng cọc khác có tấm bảng ghi dòng chữ: “Trường bắn”. Toàn bộ khung
cảnh của phiên tòa ngay từ đầu đã sặc mùi tử khí. Giữa thanh thiên bạch nhật và
cái nắng gay gắt, bầu không khí chợt trở nên u ám, ngột ngạt, đặc quánh sợ hãi.
Cuối cùng phiên tòa cũng bắt đầu. Trước đám “bần cố nông”
nói cười ồn ào “bồng bế nhau đi coi xử tội địa chủ”, một toán “thanh niên và
nhi đồng cải cách” được dẫn vào và bắt đầu thực hiện công tác tuyên truyền “tạo
không khí cách mạng”. Sau màn lấy khí thế gồm có hô khẩu hiệu chen lẫn vỗ tay ca
hát và sau màn chào cờ long trọng là đến phần chính của “phiên toà cải cách”. Ba
tiếng trống thình thình, rờn rợn là hiệu lệnh cho một cuộc “nồi da xáo thịt” vừa
mang sắc thái trung cổ, vừa đậm đặc màu sắc “thổ cải” Trung Hoa.
Có lẽ cái ngày định mệnh đó đã chém một nhát sâu đau đớn
vào tinh thần của Trần Đức Thảo, trở thành nỗi ám ảnh đằng đẵng đeo bám, nên
ông đã nhớ ghi gột đến từng chi tiết. Sau nhiều năm, qua mô tả của Trần Đức Thảo,
nỗi ám ảnh ghê rợn ấy lại hiện ra sừng sững, vừa đóng vai nhân chứng, vừa đóng
vai quan tòa: “Kẻ thù giai cấp” quần áo xốc xếch vương vết bùn, máu bị buộc
thành một chuỗi bởi những khúc dây thừng to vòng quanh cổ được mang ra cho đám
đông ngu muội, cuồng nộ và quá khích hành hạ bằng báng súng, cùi chỏ và những lời
buộc tội ngô nghê, mơ hồ theo lối mớm cung, ngụy tạo. Nạn nhân bị vu cáo những
tội lỗi giời ơi từ trên trời rơi xuống, bị đánh đập, bị vả vào mặt theo cùng một
cách đã được huấn luyện. Không có văn bản điều tra, không có một điều luật nào
được viện dẫn để lấy đó làm cơ sở buộc tội - lần đầu tiên trong đời, Trần Đức
Thảo chứng kiến một “phiên toà” lạ lùng đến vậy với sự đánh đập thô bạo tới mức
khủng khiếp. Một ý nghĩ lướt nhanh qua đầu ông: “Đây là một trò hề công lý chứ
có luật lệ gì đâu!”.
Thật vậy, trong sáu kẻ bị đấu tố có lẽ chỉ có tên lý trưởng
là gian ác, còn lại thì đều bị oan, đều là người dân hiền lành. “Tội” của họ chỉ
là có chút của ăn, của để, mà thứ “của ăn, của để” ấy có được cũng là nhờ vào lao
động vất vả[22].
Kết thúc “phiên tòa”, các tội nhân bị tuyên tử hình, bị tịch
thu toàn bộ tài sản để chia lại cho nhân dân trong xã. Mặc dù làm dữ như vậy
song cuộc đấu tố vẫn bị đánh giá là “không thành công”, là “một phiên xét xử
không đạt tiêu chuẩn về mọi mặt”. Nguyên nhân sai sót được “cán bộ cố vấn” chỉ
ra là do “không ai hiểu rõ được mục tiêu của phiên toà” - kết án tử hình mấy
tên phản động, phản cách mạng ấy chỉ là chuyện nhỏ, chúng có thể bị xử tử, xử bắn
một cách dễ dàng, bất cứ lúc nào mà không cần triệu tập đông đảo nhân dân đến
chứng kiến. Vấn đề là ở chỗ phải dứt khoát biến “quần chúng nhân dân” thành “quần
chúng cách mạng”. Vì thế, “phải xử sao cho quyết liệt, sao cho gây chấn động
trong từng cái đầu (…). Phải xử sao cho có khí thế để phát huy uy quyền của bạo
lực cách mạng trong đầu mọi người (…). Phải chứng tỏ bạo lực cách mạng là dứt khoát,
không gì lay chuyển nổi!”[23].
Vì mục tiêu ấy, phiên tòa được quyết định mang ra xử lại cho thật có khí thế, “trừng
trị mấy tên phản động ấy cho thật ròn rã, vang dội, để dập tắt mọi tư tưởng phản
động trong đầu quần chúng. Phải làm cho tư tưởng phản động, phản cách mạng
không bao giờ có thể bùng lên trong đầu mỗi con người. Họp phiên toà để xử án
là vì quần chúng! Xử tử bọn phản cách mạng là để giác ngộ tập thể!”[24].
Kết luận chắc nịch như đinh đóng cột, như dao chém đá của
“đồng chí cố vấn” Trung Quốc dẫn đến một phiên xử lại được sắp đặt kỹ lưỡng từng
chi tiết vào buổi đêm ba ngày sau đó – một phiên tòa nghiêm trang và áp đảo hơn
phiên trước với phần hạch tội dữ dội hơn, số nhân chứng đứng ra kể khổ, kể tội
đông hơn, thuộc bài hơn và tỏ ra hung hãn hơn. Đây thực sự là một cuộc biểu
dương lực lượng rầm rộ, uy hiếp tinh thần đúng theo khẩu hiệu “Quyết tâm tiêu
diệt tàn dư phong kiến, thực dân!”.
Phán quyết từ hình tất cả sáu tội nhân được thi hành ngay
tại chỗ trước một bãi đông nghẹt người trong đêm lờ mờ ánh trăng, dưới ánh lửa
bập bùng ma quái của những bó đuốc. Thời gian như ngưng lại. Và rồi…loạt súng nổ
vang dội làm rung chuyển cả núi rừng trong phút chốc đã biến sáu mạng người thành
những cái xác không hồn.
Ngay từ những buổi đầu được giao nhiệm vụ “bắt rễ” với một
gia đình bần cố nông, Trần Đức Thảo đã nhận thấy ngay tình thế vừa nguy nan, vừa
khôi hài, tiến thoái, lưỡng nan mà ông rơi vào. Tình thế đó khiến Trần Đức Thảo
từng cười như nổi cơn điên rồi lại tủi phận mình mà bật khóc, rồi lại cười đến
tràn nước mắt. Ông đã có những giấc ngủ không yên, tâm thần ngày càng suy yếu, mộng
mị, hoảng hốt như chính mình là bị cáo trước một thứ toà án không luật lệ,
không công lý. Cảnh xử bắn hãi hùng bồi thêm một đòn chí mạng, chực làm Trần Đức
Thảo gục ngã. Những phát súng chát chúa của phiên tòa hôm ấy như bắn vào chính thân xác ông, “vĩnh viễn đập tan
tành giấc mộng trở về góp công sức xây dựng một mô hình cách mạng mà nhân loại
trông chờ”[25]. Mặc
cảm đồng lõa với tội ác hành hạ Trần Đức Thảo, gay gắt, quay cuồng chất vấn,
đòi ông “phải tỏ thái độ, phải có lập trường rõ rệt; không thể im lặng a dua đồng
loã một cách mù quáng”[26].
Từ giờ phút ấy, Trần Đức Thảo “ý thức rất rõ rằng, lúc này, ở nơi đây, mình sẽ
không có một cơ hội nào để góp một chút gì tốt đẹp cho cách mạng”[27].
Thực tại tàn nhẫn đặt cho Trần Đức Thảo những câu hỏi hết
sức hóc búa: “Có thể nào cản ngăn được thứ bạo lực thô bạo này, khi nó đang
trong đà phát động với tất cả hăng say, cuồng nộ, cuồng tín như thế?”; “Tất cả
những gì đang làm kia có thật là để cải tạo xã hội, giải phóng con người hay
không?”; “Để cái ác cứ tiếp tục phát triển như nó vẫn được khai triển trong suốt
chiều dài lịch sử?”; “Một ý thức hệ không bảo vệ được người vô tội thì có còn
lý do để tồn tại hay không?”[28]...
Rõ ràng, phải hết sức nguỵ biện mới chứng minh được rằng, “thiên đường xã hội
chủ nghĩa có thể xây dựng bằng phương pháp giả dối”[29].
Như thế, triết gia đã mắc kẹt vào tình thể dở cười, dở khóc: Giữa một bên là lý
tưởng, là lý luận biện chứng mạch lạc và một bên là thực tiễn cách mạng đầy sai
trái, thô thiển, cổ lỗ, tăm tối, mâu thuẫn, thô bạo như ở thời sơ khai, man rợ.
Có một điều đáng lưu ý là trong tối tăm, tuyệt vọng vẫn
có một khoảng sáng huyền ảo khiến Trần Đức Thảo càng thấy rõ vai trò, trách nhiệm
của mình trước hiện tại. Đó là nhận thức của một bộ phận người nông dân thể hiện
qua suy nghĩ của một cá nhân cụ thể - bần cố nông Lê Tư. Cái cách mà người nông
dân này đóng kịch giả câm, giả điếc, trốn tránh để không phải trở thành “bần có
nông nổi dậy” (đội viên cải cách) đứng lên tố đấu tố nhà giàu trái với luân thường,
đạo lý đã lay động những suy nghĩ của Trần Đức Thảo. Lý luận của một bần cố
nông hết sức đơn giản, không cao siêu, rắc rối, không biết đến những khái niệm
trừu tượng, siêu hình song lại hết sức thuyết phục, vì nó chính là những giá trị
nhân bản truyền thống luôn tàng ẩn trong tiềm thức mỗi con người. Nó là đạo lý
giữa con người với con người được gieo trồng, vun đắp qua chiều dài hàng ngàn
năm lịch sử người Việt - một bản năng hiền hòa, một thứ lương tri tự nhiên của đạo
làm người: “Sống hiền lành để phúc cho con”, “trời có mắt, trời quả báo”, “sống
gian ác trời không dung tha”, “đời này mình không phải trả thì đến đời con, đời
cháu mình chúng sẽ phải trả”….
Nhận thức rằng, bạo lực, hận thù, máu và nước mắt của
nhân dân không thể đặt nền nóng cho một xã hội lý tưởng, không thể tạo nên một
trật tự ổn định, Trần Đức Thảo cho rằng phải xem xét lại toàn bộ các vấn đề bắt
đầu từ học thuyết, trên một nguyên tắc đơn giản, khoa học: Gột rửa tâm thức
giáo điều sùng bái ý thức hệ một cách lố lăng, vứt bỏ trò chơi dân chủ giả hiệu,
trả lại quyền dân chủ cho dân.
4- Lối thoát từ trong
va đập hiện thực
Định mệnh dai dẳng đeo bám và không buông tha Trần Đức Thảo,
lạnh lùng khoác vào số phận ông hai từ “oan nghiệt”.
Ít năm sau khi hòa bình lập lại trên miền Bắc, Trần Đức
Thảo vướng vào kỳ án “Nhân Văn - Giai Phẩm”. Hưởng ứng việc giới văn nghệ muốn
thoát ra khỏi chế độ quản lý theo kiểu trại lính, đòi “trả văn nghệ lại cho văn
nghệ sĩ”, Trần Đức Thảo có hai bài viết bàn về dân chủ,
tự do đăng trên tờ Nhân Văn và Giai Phẩm Mùa Đông. Bị quy cho “tội danh” âm mưu chống Đảng, Trần
Đức Thảo bị cấm giảng dạy, rồi bị bắt. Được thả về, sống trong cô đơn và điều
kiện vật chất hết sức ngặt nghèo, chịu đựng ánh nhìn ghẻ lạnh của những người
xung quanh, song Trần Đức Thảo không đầu hàng nghịch cảnh. Trong cơn xoay vần của
số phận, tố chất triết gia, tư duy triết học đã giúp Trần Đức Thảo nhìn nhận những
bể dâu cuộc đời, những vận động của xã hội và thời cuộc quanh mình như một dịp
may sống động để trải nghiệm, để tìm hiểu, để lý giải hướng vận hành, cách thức
vận hành của cách mạng và xã hội.
Thực hiện công cuộc
nghiên cứu thực tại ngay ở hiện trường với tư cách “người quan sát” từ bên
trong (chứ không phải là người nhập cuộc), ở vị trí đứng ngoài quyền lực, Trần
Đức Thảo tỉnh táo phát hiện những điểm thắt, những nút nghẽn của cơ chế chính
sách, những căn bệnh trầm kha của xã hội. Như trong một phòng thí nghiệm lớn,
trước một hiện trường tâm lý - xã hội phong phú, đa dạng, Trần Đức Thảo chăm
chú theo dõi những chuyển biến ở con người, xã hội trên bước quá độ của cuộc
cách mạng vô sản, hiểu những khát vọng, những ước mong thầm kín của họ, nhìn thấy
những bế tắc xã hội. Trần Đức Thảo phân tích chủ nghĩa ngu tín (obscurantisme),
cuồng tín (fanatisme), tình trạng con người bị nô lệ hoá, có mắt như mù, có đầu
mà mất lý trí đang trở nên phổ biến, phân tích mối tương quan giữa hữu sản với
vô sản, quan hệ giữa con người hữu sản và con người vô sản, phân tích vấn đề
xoá bỏ hay không xóa bỏ giai cấp… Những phân tích như thế cho phép ông khám phá
xu thế mà xã hội đang tiến tới.
Để lý giải, Trần Đức
Thảo vẽ một sơ đồ phát triển, từ sự hình thành của ý thức tới khả năng truyền
thông, lý luận, rồi đẩy lý luận qua thực tại bước tới một giai đoạn tư duy đa
chiều, díc dắc. Sơ đồ ấy cho phép ông nhận biết những bước sai lầm trong phương
pháp tư duy dẫn tới lệch lạc trong hành động, trong chính sách, dẫn tới cách thức
hành động tùy tiện và phương hướng phát triển phiêu lưu, không tưởng, thiếu nền
tảng vững chắc. Như vậy, bước đầu Trần Đức Thảo đã “phác họa lộ trình quá độ
hình thành sai lầm trong tư duy sơ đồ toàn cảnh của sự vận động hình thành con
người qua những hoàn cảnh biến đổi của vũ trụ và của xã hội”[30].
Ẩn dấu dưới dáng vẻ cũ kỹ, có chút lập dị, lúc nào cũng ngơ ngác trước cuộc đời
tầm thường là hứng khởi khám phá, là sự say mê đến sôi sục và sự không ngần ngại
lao mình vào công cuộc nghiên cứu của một nhà triết học. Nguồn cảm hứng khoa học
bất tận làm mạnh mẽ thêm nghị lực của Trần Đức Thảo, rót luồng năng lượng vào
trí tuệ vốn đã mẫn tiệp của triết gia khiến nó càng thêm thông tuệ. Trên quan
điểm “những gì xuất hiện trong hiện tại đều có gốc rễ từ quá khứ”[31],
Trần Đức Thảo kiên trì lật từng lớp đất đá kết tụ qua thời gian đi tới tầng sâu
bản chất, sáng tạo lý thuyết “hiện tại sống động”, không mệt mỏi kết nối quá khứ
- hiện tại để nhận thức hiện tại và dự báo tương lai.
Tiếp cận thực tại đầy mâu thuẫn trong xã hội đã thức tỉnh
Trần Đức Thảo, khiến ông kiên trì phân tích thấu đáo những sự vật, hiện tượng
đang diễn ra. Tin tưởng ở khả năng tư duy mới mẻ, Trần Đức Thảo đơn độc đi tìm
thủ phạm của thảm kịch thời đại, mang trên vai cây thập giá đời những mong hoàn
thành mục tiêu phác thảo lớp lang một cuốn sách vĩ đại đã và đang chiếm lĩnh,
ám ảnh đầu óc ông cho tới lúc nhắm mắt xuôi tay.
* *
*
Là chứng nhân bao lở bồi, đổi thay, sống trong hiện thực
đau xót với những sai lầm về chính trị, kinh tế, văn hóa kéo dài, song Trần Đức
Thảo luôn có một niềm tin vững chắc rằng, “trong lịch sử, luôn luôn có sự vùng
dậy của chân lý và lương tri”[32]
và “những tư tưởng đúng với lương tri, thấm nhuần thực tại đều có sức mạnh của
sự thật”[33]. Từ
thất vọng đến nhìn thấu hiện thực dưới lăng kính triết học, đến cuối cuộc đời, dù
cô đơn và bệnh tật, ông vẫn luôn tự đặt cho
mình nhiệm vụ tìm kiếm, vẽ nên một mô hình xã hội lý tưởng và hoàn bị. Đó là mô
hình tràn ngập “tinh thần và lý tưởng dân chủ của một nền công bằng xã hội chân
chính”[34],
con người thể hiện rõ quyền sống, quyền dân chủ bằng lá phiếu của mình. Ở đó,
“con người sẽ khai triển một cuộc cách mạng lý tưởng bằng lương tri, trí tuệ, bằng
luật pháp nghiêm minh với sức mạnh của công lý, công bằng chứ không phải bằng bạo
lực của hận thù”[35].
Mô hình xã hội ấy, như Trần Đức Thảo giải thích, “do hiện thực xã hội đòi hỏi
và đặt nền tảng”, một nền tảng duy vật sử quan; đồng thời, những vấn đề nhân bản,
công lý và dân chủ sẽ được chú trọng, duy trì bằng cơ chế ưu tiên kiểm soát quyền
lực với những cơ sở lý luận và pháp lý phát huy tính thiện, kiềm chế tính ác
trong mỗi con người, giúp con người đạt tới công bằng, bác ái, tự do và hạnh
phúc thật sự. Đó cũng là nội dung cuốn sách mà ông
thôi thúc muốn viết ra để trả món nợ cho triết học, cho dân tộc và nhân
loại.
Trần Đức Thảo đã ra đi về với cát bụi, ôm nỗi ân hận “hoàng
hôn đi qua cả một cuộc đời” và ước nguyện viết sách của ông vẫn còn dang dở. “Lý
thuyết hiện tại sống động” với “lô-gích vừa biện chứng, vừa hình thức” và sự
nghiệp triết học trải nghiệm công cuộc cách mạng Việt Nam của Trần Đức Thảo còn
đó như một dấu chấm hỏi mà hậu thế liệu có mấy người có thể trả lời.
Dẫu loài người không bao giờ theo được Thập giới của Chúa,
thì Trần Đức Thảo cũng đã đi trọn cuộc đời gió sương, bước qua vui buồn, đau khổ
của cõi con người. Sự nghiệp triết học ông để lại chắc chắn sẽ có một chỗ đứng
xứng đáng trong lịch sử, như cỏ thơm còn mãi với thời gian.
[1] Tri Vũ – Phan Ngọc Khuê: Trần Đức Thảo – những lời trăn trối, Tổ hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2014, tr.92.
[2] Sđd, tr.92.
[3] Sđd, tr.93.
[4] Sđd, tr.93.
[5] Sđd, tr.91.
[6] Sđd, tr.94.
[7] Sđd, tr.88.
[8] Sđd, tr.94.
[9] Trần Đức Thảo mô tả: Bản “Trích ngang” các cột ghi rõ: Họ và tên,
các bí danh, ngày, tháng năm sinh, quê quán, trình độ học vấn, trú quán, tình
trạng gia đình, họ tên vợ hay chồng, họ tên các con, đã thoát ly theo cách mạng
ngày nào, đã vào đảng ngày nào, vào đảng do ai giới thiệu, hiện đang làm nhiệm
vụ gì. Ngoài ra còn có phần Ghi chú nêu rõ: “Ghi những gì bản thân muốn khai
báo thêm với cách mạng” [Trần Đức Thảo –
những lời trăn trối, Sđd, tr.107].
[10] Trần Đức Thảo viết: Phải khai
thật chi tiết từ ba đời nội ngoại trở lại hiện tại, chẳng những phải khai cả về
bên bố, bên mẹ… Rồi cũng y như thế, phải khai cả về vợ và nội ngoại bên nhà
vợ,rồi tới các con cũng với tối đa chi tiết có thể, rồi cả các bên thông gia”
[Tri Vũ – Phan Ngọc Khuê: Trần Đức Thảo –
những lời trăn trối, Sđd, tr.107].
[11] Sđd, tr.108.
[12] Sđd, tr.109.
[13] Sđd, tr.111.
[14] Sđd, tr.112.
[15] Sđd, tr.115.
[16] Sđd, tr.117.
[17] Sđd, tr.115.
[18]
“Bắt
rễ” là khi tới địa phương, đội viên phải tìm tới sống chung với một gia đình
bần cố nông có tên trong một danh sách thành phần xã hội nghèo túng, mà chính quyền
địa phương đã lập từ trước. Các đội viên phát động cải cách có nhiệm vụ động
viên, giáo dục bần cố nông, tức là dạy cho họ biết các “quyền” và “lợỉ” của bần
cố nông trong và sau khi tham gia cải cách ruộng đất, giải thích để họ hiểu về
quyền và nghĩa vụ hạch tội, trừng trị địa chủ, phú nông.
[19]
Xâu
chuỗi” là sử dụng cách sống chung ấy để kết nạp, thúc đẩy và tổ chức cho bần cố
nông ấy trở thành một tổ viên thi hành cải cách, nghĩa là biết đấu tố, biết
hạch tội, biết nhận một thứ nhiệm vụ công tố y như trong một toà án. Tổ viên
này sẽ đứng ra buộc tội, lên án bọn địa chủ, phú nông, cường hào, ác bá…
[20] Tri Vũ – Phan Ngọc Khuê: Trần Đức Thảo – những lời trăn trối, Sđd, tr.121.
[21] Sđd, tr.127.
[22] Sđd, tr.141.
[23] Sđd, tr.145.
[24] Sđd, tr.146.
[25] Sđd, tr.156.
[26] Sđd, tr.157.
[27] Sđd, tr.156.
[28] Sđd, tr.156.
[29] Sđd, tr.150.
[30] Sđd, tr.218.
[31] Sđd, tr.226.
[32] Sđd, tr.262.
[33] Sđd, tr.262.
[34] Sđd, tr.334.
[35] Sđd, tr.334-335.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!