Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà
Nội
Cách
mạng tháng Tám 1945 thành công đã phá tan xiềng xích của chế độ thực dân gần
100 năm cùng với chế độ vua quan phong kiến hàng ngàn năm, khai sinh ra nước
Việt Nam DCCH. Toàn thể dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc
lập và tự do. Đó chính là điều kiện cơ bản, thuận lợi để Đảng, Nhà nước Việt
Nam xây dựng đất nước về mọi mặt, trong đó có việc xây dựng một nền giáo dục,
đáp ứng được nhu cầu phát triển và phù hợp với hoàn cảnh mới của đất nước.
1. Với những hệ quả trầm trọng mà thực dân Pháp
để lại cho nền giáo dục Việt Nam sau hơn gần 100 năm đô hộ (nạn thất học),
nhiệm vụ cấp bách lúc này là phải thanh toán được nạn mù chữ. Đây được coi là
một trong ba nhiệm vụ lớn nhất của toàn dân lúc bấy giờ: Diệt “giặc đói”, “giặc
dốt” và “giặc ngoại xâm”. Đảng và Nhà nước Việt Nam xem “giặc dốt” thực sự là
một kẻ thù, một kẻ thù nguy hiểm chẳng khác gì giặc ngoại xâm.
Sau
Cách mạng tháng Tám 1945, trong nhiều thôn xã, phố phường, thị trấn…của Việt
Nam thiếu hẳn những người đọc thông, viết thạo, có trình độ để đảm nhận những
nhiệm vụ quan trọng, đáp ứng những yêu cầu cấp bách về cán bộ cho các ngành
quân sự, chính trị, kinh tế và văn hoá trong những ngày đầu xây dựng, kiến
thiết đất nước. Tình hình khẩn cấp đó đặt ra cho ngành giáo dục cùng lúc hai nhiệm vụ: 1- Tập trung chống nạn
mù chữ; 2- Mở các trường đào tạo nhân tài cho đất nước.
Giai
đoạn lịch sử mới, yêu cầu việc chống nạn thất học phải được triển khai nhanh
chóng và mạnh mẽ, góp phần đắc lực vào việc giáo dục quần chúng lao động hiểu
biết về bản chất của chế độ mới, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, động viên
lòng yêu nước, hun đúc ý chí xây dựng và bảo vệ chế độ mới, bởi không thể xây
dựng một xã hội mới trên một nền tảng dân trí thấp.
Như
vậy, để bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam coi
trọng nhiệm vụ chống “giặc đói”, “giặc dốt” và “giặc ngoại xâm”, thực hiện chủ
trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa kháng chiến, vừa xây dựng một nền
giáo dục mới. Do vậy, ngay những ngày đầu tiên của chính quyền cách mạng non
trẻ, Chính phủ nước Việt Nam DCCH đã quyết định: Trong thời hạn ngắn sẽ cử hành
lệnh bắt buộc học chữ quốc ngữ để chống nạn mù chữ triệt để”. Ngày 3-9-1945,
trong buổi họp Hội đồng chính phủ đầu tiên, vấn đề giáo dục đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu lên. Trong khi chỉ ra sáu nhiệm vụ cấp bách, nhằm bước đầu thực
hiện chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, đặt nhiệm vụ diệt “giặc dốt”
đứng hàng thứ hai, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Nạn dốt là một trong những phương
pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn 90% đồng bào chúng ta
mù chữ. Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo
vần chữ Quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở
một chiến dịch chống nạn mù chữ”[1].
Hồ Chí
Minh cũng đề nghị phải gấp rút chống lại nạn thất học cho toàn dân: “Muốn giữ
vững được nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước giầu mỗi người Việt Nam phải
hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới có thể
tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết
chữ quốc ngữ”[2]. Đề nghị
này của Hồ Chí Minh được thông qua và trở thành quyết định của Hội đồng Chính
phủ. Ngày 8-9-1945, Chính phủ ban hành ba sắc lệnh về Bình dân học vụ:
- Sắc lệnh số 17/SL:
“Đặt ra một bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam”. Sắc lệnh thành lập
Nha bình dân học vụ khẳng định việc học chữ là bắt buộc và không mất tiền để
cấp tốc xoá nạn mù chữ, vì dốt nát là một trong ba thứ giặc cần phải tiêu diệt.
Ngay từ khi thành lập Nha Bình dân học vụ, Bộ Quốc gia Giáo dục đã chỉ đạo tập
hợp cán bộ truyền bá quốc ngữ và lực lượng cho chiến dịch xoá mù chữ, để nhằm
từng bước nâng cao dân trí và coi đó là một tiêu chí phát triển cùng với các
lĩnh vực khác.
- Sắc lệnh số 19/SL: “Thiết lập cho nông
dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối”. Theo Sắc lệnh này, trong 6 tháng, làng nào, thị trấn nào cũng
phải có lớp học, ít nhất phải có 30 người theo học.
- Sắc lệnh số 20/SL: “Việc học chữ quốc
ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn trong một năm,
toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”[3].
Ba sắc
lệnh trên bổ sung cho nhau để trở thành Đạo
luật đầu tiên của nền giáo dục Việt Nam DCCH, có tác dụng làm chuyển biến
quan niệm và nhận thức của các cấp chính quyền và các tầng lớp nhân dân đối với
vấn đề học chữ Quốc ngữ.
Cũng vào ngày 8-9-1945, nhân ngày tựu trường đầu tiên của
nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh gửi thư cho tất cả học sinh. Bức thư có ý nghĩa
như một cương lĩnh giáo dục: Một nền
giáo dục hoàn toàn Việt Nam... làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có
của học sinh Việt Nam.
Như
vậy, ngay từ tháng 9-1945, Nhà nước Việt Nam DCCH đã đề ra hai nhiệm vụ về giáo
dục: Một là, đánh đổ chính sách ngu
dân, chống nạn mù chữ; hai là, giáo
dục lại nhân dân, chống các thói hư tật xấu do chế độ cũ để lại, làm cho dân
tộc Việt Nam trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc
xứng đáng với nước Việt Nam độc lập.
Tư
tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là phải xây dựng
một nền giáo dục phục vụ sự nghiệp nâng cao dân trí, trên cơ sở nhận thức sâu
sắc tính chất nham hiểm và khắc phục hệ quả tai hại của chính sách ngu dân, bởi
“một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Nhiệm vụ cấp bách ngay sau khi giành độc
lập trong lĩnh vực giáo dục là làm sao cho mọi người biết đọc, biết viết chữ
quốc ngữ, có kiến thức, hiểu biết được quyền lợi và bổn phận của mình. Làm cho
sự nghiệp giáo dục trở thành một bộ phận gắn bó mật thiết, đồng hành, phục vụ
sự nghiệp cách mạng.
Ngày
4-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học,
người chưa biết chữ phải coi học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của mình, người
biết chữ có nghĩa vụ dạy người chưa biết chữ, nhất là phụ nữ lại càng phải học
tập, thanh niên phải đi đầu trong công tác này.
Tiếp đó, ngày 10-10-1945, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành
lập Ban đại học văn khoa; giữa tháng 10-1945, Hồ Chí Minh ký tiếp Sắc lệnh số 34/SL thành lập Hội đồng cố
vấn học chính.
Hiện
thực hóa những chủ trương nêu trên, Nhà nước Việt Nam DCCH cùng và nhân dân đã
nỗ lực xây dựng nền giáo dục dân tộc, dân chủ, phục vụ kháng chiến. Nền giáo
dục của nước Việt Nam độc lập ra đời là nền giáo dục nhân dân, nền giáo dục
phục vụ nâng cao dân trí, để làm cho cả dân tộc thành một dân tộc thông thái,
một dân tộc có học và văn minh. Từ nay, vấn đề nâng cao dân trí trở thành quốc
sách, là ưu tiên hàng đầu, nền giáo dục trở thành một bộ phận gắn bó với sự
nghiệp cách mạng. Đó là nền giáo dục dân chủ mới- giáo dục dân chủ nhân dân,
với quy mô được mở rộng hơn hẳn trước tháng 8-1945.
Trên
thực tế, hệ thống giáo dục quốc dân được xây dựng, bao gồm:
-
Bình
dân học vụ;
-
Giáo
dục cơ bản;
-
Giáo
dục phổ thông;
-
Giáo
dục chuyên nghiệp;
-
Giáo
dục đại học.
Thực
hiện chủ trương của Đảng, Lời kêu gọi
toàn dân chống nạn thất học (14-10-1945) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lần đầu
tiên ở Việt Nam có một chiến dịch chống nạn mù chữ rộng khắp cả nước.
Bên
cạnh việc tổ chức các lớp Bình dân học vụ, Chính quyền triển khai các lớp bổ
túc văn hoá, tiến hành song song với việc thanh toán nạn mù chữ. Đây là hình
thức vừa làm, vừa học, mà trọng tâm là chiến đấu và sản xuất. Hệ thống bổ túc
văn hoá cũng dựa theo hệ thống trường phổ thông trong việc chia cấp học, nhưng
về chương trình có khác ở hai điểm cơ bản: Yêu cầu của người lớn khác với yêu
cầu của thanh niên; bổ túc văn hoá là dạy cho những người vừa làm, vừa học.
Ngày
25-11-1945, BCHTƯ Đảng ra Chỉ thị “kháng
chiến, kiến quốc”, trong đó nhấn mạnh phải tổ chức bình dân học vụ, mở
trường đào tạo cán bộ, phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Ngày
10-8-1946, Sắc lệnh 146/SL được ký,
khẳng định tinh thần của nền giáo dục mà Nhà nước Việt Nam xây dựng là nền giáo
dục dân chủ mới, với ba tính chất: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Cụ thể là:
Tính dân tộc yêu cầu nội dung
giáo dục phải quán triệt việc giáo dục lịch sử dân tộc, giáo dục tinh thần yêu
nước, niềm tin vào sức mạnh, tiền đồ của dân tộc, nêu cao truyền thống chống
ngoại xâm của cha ông ta. Lịch sử nước nhà phải là lợi khí tư tưởng của dân
tộc, là một trong những nội dung cơ bản của nền giáo dục, nhằm đào tạo thế hệ
trẻ trở thành những người phụng sự dân tộc một cách đắc lực.
Tính khoa học là phải dạy cho học
sinh tri thức khoa học, tiến bộ, chống lại giáo điều, phát triển tư duy, học đi
đôi với hành, giáo dục gắn liền với đời sống thực tiễn, phát huy tinh thần ham
hiểu biết, học hỏi. Nền giáo dục khoa học thực sự làm công cụ để giải phóng dân
tộc về mặt tư tưởng.
Tính đại chúng đòi hỏi nền giáo dục
có nhiệm vụ mang tri thức khoa học tới mọi quần chúng nhân dân, phổ cập trình
độ học vấn từ thấp tới cao. Tính đại chúng của nền giáo dục đồng nghĩa với tính
chất dân chủ, được thực hiện từng bước. Thực hiện giáo dục cho quảng đại quần chúng
nhân dân là một trong những nhiệm vụ của chính quyền cách mạng. Nhờ đại chúng
hoá nền giáo dục, mà tạo ra động lực mới cho việc phát triển giáo dục, khoa
học, kinh tế, xã hội.
Cuối
năm 1946, khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, để phù hợp với tình hình mới,
Đảng đã có chủ trương chuyển nền giáo dục cho phù hợp với thời chiến. Lúc này,
bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, giáo dục lại càng có vị trí quan trọng.
Giáo dục cùng các lĩnh vực khác tham gia vào việc động viên sức người, sức của
vào cuộc kháng chiến, kiến quốc. Thực hiện nhiệm vụ đó, nhà trường tích cực
tuyên truyền tinh thần yêu nước, lòng căm thù đối với chủ nghĩa thực dân và ý
chí đấu tranh kiên cường để giành thắng lợi cuối cùng. Trong kháng chiến, phong
trào Bình dân học vụ vẫn tiếp tục được phát triển với khẩu hiệu: “Mỗi lớp bình
dân học vụ là một tổ tuyên truyền kháng chiến”, “Chống mù chữ, chống xâm lăng”…
Trong giai đoạn phòng ngực, khi rút khỏi đô thị, các cơ quan, các đơn vị phân
tán về nông thôn và lên các vùng căn cứ địa, đến đâu, các hoạt động giáo dục
đều được phát huy, dạy đồng bào, thanh toán nạn mù chữ. Vì thế, phong trào thi
đua thanh toán nạn mù chữ phát triển ở mọi vùng, các lớp Bình dân học vụ được
duy trì trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Đồng
thời với Bình dân học vụ, Bổ túc văn hoá, những trường tập trung đầu tiên cũng
được mở ra, trước hết cho cán bộ. Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc được thành lập và
tiến hành những lớp học tập chính trị để nâng cao trình độ lý luận chính trị
của cán bộ. Các trường Phổ thông Lao động cũng được thành lập.
Nhà
nước Việt Nam mới đã tiến hành khôi phục, cải tổ và bước đầu xây dựng các ngành
học từ tiểu học đến đại học. Ngoài trường phổ thông, trong điều kiện kháng
chiến, Đảng và Nhà nước còn chú trọng phát triển các lớp mẫu giáo, xây dựng hệ
thống bổ túc văn hoá và hệ thống giáo dục cao đẳng.
Giáo
dục không chỉ dừng lại ở trình độ bình dân học vụ, xoá nạn mù chữ, mà ngay từ
năm 1947-1948, ngành giáo dục đã xây dựng bậc bình dân học vụ cho người lớn bao
gồm:
- Sơ
cấp bình dân học vụ: Biết đọc, biết viết.
- Dự
bị bình dân học vụ: Tương đương với hết tiểu học 2 năm.
- Bổ
túc bình dân cấp I: Tương đương với hết tiểu học 4 năm.
- Bổ
túc bình dân cấp II: Tương đương với hết trung học cơ sở 4 năm.
Về
giáo dục Phổ thông, Bộ Giáo dục đã triển khai các chủ trương, tiếp tục phát
triển giáo dục phổ thông, thay đổi lại cơ cấu, cũng như nội dung cho thích hợp
với hoàn cảnh mới: Học đi đôi với hành; nửa ngày học, nửa ngày tham gia lao
động, sản xuất, hoặc phục vụ công tác kháng chiến. Khắp nơi trong vùng kháng
chiến, thầy và trò tham gia học tập, lao động, giúp dân trong những ngày mùa,
tăng gia sản xuất và trồng trọt…
Lúc
này, việc thiếu cán bộ có trình độ đang là vấn đề nóng bỏng. Do vậy, vấn đề xây
dựng ngành giáo dục đại học, cao đẳng và chuyên nghiệp là hết sức cần thiết.
Chính vì vậy, Nhà nước Việt Nam đã triển khai xây dựng một loạt các trường đại
học, cao đẳng và trung học.
Tháng
4-1947, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 4 đã chỉ ra những phương hướng chính
cho giáo dục là: Chương trình học phải thiết thực, nhằm đào tạo nhân tài cho
kháng chiến ở tất cả mọi lĩnh vực; học sinh phải vừa học vừa sản xuất, tự túc
một phần; tiếp tục phát triển bình dân học vụ; chú ý mở trường ở vùng có dân
tộc thiểu số. Nói cách khác, “phương hướng chính của toàn ngành giáo dục lúc
này là công việc giáo dục phải thích hợp với thời kỳ kháng chiến”[4].
Tháng
1-1948, Hội nghị mở rộng BCHTƯ Đảng đã chỉ rõ mục đích của giáo dục là phải
phục vụ kháng chiến và kiến quốc; đồng thời đề ra những biện pháp cần thiết để
thực hiện tốt nhiệm vụ nêu trên. Đó là: Chấn chỉnh và mở mang việc học trong
thời chiến; dịch chương trình học và soạn sách giáo khoa mới theo kế hoạch và
gửi lưu học sinh đi học nước ngoài. Tiếp theo đó, Nghị quyết của Hội nghị cán
bộ Trung ương ngày 20-5-1948 nhấn mạnh thêm các công tác cấp thiết mà ngành
giáo dục phải làm ngay (chỉnh đốn giáo dục, sửa chữa lại chương trình giáo dục
các cấp, mở thêm trường…), trong đó đặc biệt chú trọng đến vấn đề bình dân học
vụ. Trong thư gửi Hội nghị giáo dục toàn quốc tháng 7-1948, Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong khi chỉ rõ mục tiêu “cần phải có một nền giáo dục kháng chiến và
kiến quốc”[5],
đã một lần nữa nêu lên các nhiệm vụ cấp thiết mà giáo dục phải tiến hành ngay:
Sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho phù hợp với sự nghiệp kháng chiến
kiến quốc; sửa đổi cách dạy và học; đào tạo cán bộ; tiếp tục đẩy mạnh bình dân
học vụ….
Như
vậy, xuyên suốt thời kỳ đầu kháng chiến, Đảng và Nhà nước VNDCCH đã có chủ trương từng bước cải cách, đổi mới nền
giáo dục, nhằm phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Nằm trong yêu cầu ấy,
nhiệm vụ và chức năng của giáo dục cũng được xác định rõ rệt. Về cơ bản, đó là
sự kế tục và phát triển những quan điểm về
một nền giáo dục mới của nước Việt Nam mới những năm 1945-1946
2- Năm 1950, cuộc kháng chiến của chống Pháp đã
lớn mạnh về mọi mặt. Đây là lúc cả dân tộc bước vào giai đoạn quan trọng của
cuộc kháng chiến. Với đà thắng lợi chung, Trung ương Đảng và Chính phủ đã quyết
định tiến hành cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (1950). Nội dung chính của
bản Đề án cải cách giáo dục là nhằm
cải tạo nhà trường được xây dựng theo mô hình giáo dục Pháp thành nhà trường
phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Nói cách khác, cần phải xây dựng một nền giáo
dục thực sự mang tính chất dân chủ nhân
dân. Nền giáo dục mới là nền giáo dục của dân, do dân và vì dân, triệt để
dựa ba trên nguyên tắc “Dân tộc, khoa học
và đại chúng”.
Tư tưởng chỉ đạo của cuộc cải cách là: Xác định rõ tinh
thần cách mạng của nền giáo dục mới và tính chiến đấu của nó, để chống lại quan
niệm giáo dục “trung lập” còn khá phổ biến trong đội ngũ cán bộ, giáo viên và
trong nhiều tầng lớp nhân dân. Nền giáo dục mới phải đạt được mục đích là xây
dựng con người mới, người công dân của chế độ mới, tích cực tham gia xây dựng
chế độ. Để đạt được mục đích trên, yêu
cầu căn bản lúc bấy giờ là phải giáo dục được tinh thần yêu nước, chống chủ
nghĩa đế quốc và đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Nội dung của việc giáo
dục chính trị cho học sinh là giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc,
chí căm thù giặc, tình yêu lao động, ý thức học tập, tôn trọng của công, phương
pháp suy luận và thói quen làm việc khoa học. Một số môn học mới được đưa vào
nhà trường: Thời sự- chính sách, giáo dục dục công dân, tăng gia sản xuất… Do
điều kiện kháng chiến, do thiếu thầy và vì chưa thật cần thiết, nên giảm một số
môn: Ngoại ngữ, nhạc, vẽ, nữ công gia chánh….
Mục tiêu của cuộc cải cách giáo dục là xây dựng
trường học phổ thông duy nhất 9 năm. Thời gian học được rút ngắn: Từ 12 năm
xuống còn 9 năm và chia làm ba cấp: Cấp I (4 năm); cấp II (3 năm); cấp III (2
năm), nhưng vẫn đảm bảo tính chất liên tục. Học sinh phổ thông, sau khi tốt
nghiệp muốn vào đại học phải qua lớp dự bị đại học là một năm.
Phương châm giáo dục
là học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn.
Tính dân chủ của hệ thống giáo
dục mới thể hiện ở chỗ: Tất cả các cấp của nền giáo dục phổ thông phải theo một
tinh thần chỉ đạo chung thống nhất, không có sự phân chia ranh giới như hệ
thống giáo dục tư sản (hệ thống giáo dục tư sản coi cấp tiểu học dành cho con
em nhân dân lao động, cấp tiểu học cao đẳng là để làm nghề thủ công, nhân viên
kỹ thuật trung cấp và trung học cho con cái tầng lớp trên và để vào đại học).
Chương trình học và sách giáo khoa cũng được xây dựng
lại với các kiến thức khoa học cơ bản có hệ thống, có tính chất tiên tiến và
phù hợp với yêu cầu của cuộc kháng chiến.
Đội ngũ giáo viên cũng được chuẩn bị
bằng việc mở các trường và lớp sư phạm ở Trung ương và các khu.
Cơ cấu nhà trường cải cách gồm có: Hệ phổ thông
9 năm và hệ thống giáo dục bình dân, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục cao đẳng
và đại học, trong đó hệ thống giáo dục
được kết cấu như sau:
Sơ cấp
bình dân: 4 tháng học, dạy cho người chưa biết chữ.
Dự bị
bình dân: 4 tháng học, dạy ngang trình độ lớp 3.
Bổ túc
bình dân: 8 tháng học, dạy ngang trình độ lớp 8.
Hệ
thống giáo dục chuyên nghiệp gồm:
Chuyên
viên sơ cấp: Lấy học sinh học xong cấp 1 hoặc bổ túc bình dân vào học nghề.
Chuyên
viên trung cấp: Lấy học sinh đã học xong lớp 7 hoặc trung cấp vào học 1-2 năm
cho sơ cấp, 2-4 năm cho trung cấp, tuỳ theo từng nghề.
Dự bị
đại học: 1-2 năm.
Đại
học và Cao đẳng: 3-6 năm.
Biên chế năm học: Từ 1-1 đến 31-12,
học hai kỳ, mỗi kỳ học 4 tháng. Hai đợt nghỉ mùa, mỗi đợt 2 tháng.
Tóm lại, cuộc cải cách giáo dục 1950 được
thực hiện một cách toàn diện, sâu rộng trong toàn bộ công tác giáo dục và ở tất
cả các mặt. Cuộc cải cách giáo dục 1950 đã thổi vào ngành giáo dục một sức sống
mới, đặt nền tảng cho cho việc xây dựng một nền giáo dục dân chủ mới của nước
Việt Nam với ba bộ phận cơ bản: Giáo dục thế hệ trẻ, nâng cao trình đọ văn hoá
của nhân dân lao động và đào tạo cán bộ. Từ đó, một hệ thống giáo dục hoàn
chỉnh từ mầm non đến đại học đã hình thành và phát triển, phục vụ đắc lực cho
cuộc kháng chiến và kiến quốc vĩ đại của dân tộc và phù hợp với lợi ích của
quần chúng và nhân dân lao động. Tất nhiên, bên cạnh những thành tựu mà cuộc
cải cách giáo dục 1950 đã đem lại, nó cũng bộc lộ nhiều hạn chế về nội dung,
quy mô và chất lượng. Tuy còn một số hạn chế nhất định, nhưng đã có được những
thành quả bước đầu, đáp ứng được yêu cầu đặt ra lúc bấy giờ.
3- Trong điều kiện cuộc kháng chiến đang có
những bước phát triển về chất, một công tác được Đảng và Chính phủ tích cực chú
trọng đó là đẩy mạnh bình dân học vụ và bổ túc văn hoá.
Sau
cao trào diệt dốt (1948-1950), tính đến tháng 6-1950, số người được xoá nạn mù
chữ trong cả nước lên tới hơn 10 triệu người. Đại đa số họ được học qua lớp dự
bị bình dân để thoát nạn mù chữ một cách chắc chắn và có kiến thức thường dùng
phục vụ kháng chiến và nâng cao đời sống văn hoá. Tình hình này đã tạo thuận
lợi cho công tác bình dân học vụ. Từ năm 1951, bình dân học vụ đã chuyển sang
thời kỳ tiến hành song song hai mặt công tác: Vừa tiếp tục đẩy tới việc xoá nạn
mù chữ, vừa bước đầu đẩy mạnh công cuộc bổ túc văn hoá, nỗ lực phục vụ các
nhiệm vụ chính trị lớn.
Một
đặc điểm nổi bật của bình dân học vụ thời kỳ này là nỗ lực đi sát hơn với những
yêu cầu của kháng chiến và kiến quốc, trong đó có mục tiêu nâng cao trình độ
văn hoá cho cán bộ công nông và phục vụ cuộc vận động sản xuất và tiết kiệm.
Một đóng góp khác của bình dân học vụ là phục vụ phát động quần chúng giảm tô
và cải cách ruộng đất (1953-1954), đề ra phương hướng tích cực phục vụ xoá bỏ
tình trạng bóc lột ở nông thôn; giáo dục và rèn luyện, bồi dưỡng văn hoá cho
cán bộ xuất thân từ nông dân lao động. Cũng cần nhận thấy rằng, trong các đợt
phát động giảm tô, có lúc phong trào bình
dân học vụ bị giảm sút, nhưng sau đó đã được chấn chỉnh và tiếp tục phát triển.
Tháng
2-1954, Hội nghị giáo dục toàn ngành họp và đã đề ra cho bình dân học vụ những
phương hướng và nhiệm vụ cơ bản. Hội nghị tập trung bàn về việc phục vụ phát
động quần chúng giảm tô và thực hiện cải cách ruộng đất, tuyên truyền chính
sách ruộng đất và vai trò của nhà trường trong cải cách ruộng đất. Hội nghị
nhấn mạnh hai nhiệm vụ trọng tâm của ngành trong thời gian sau đó là: 1- Bổ túc
văn hoá cho cán bộ công nông, chủ yếu là cán bộ chính quyền và đoàn thể xã; 2-
Đề cao chất lượng của ngành giáo dục, chủ yếu là ngành giáo dục phổ thông.
Năm
1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc bằng thắng lợi của
chiến thắng Điện Biên Phủ. Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Việt Nam bị chia cắt
thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Cách mạng Việt Nam bước vào
giai đoạn mới. Nhìn lại chặng đường đã qua, phải khẳng định rằng, với đường
lối, chủ trương chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, với sự nỗi lực của tất cả các
ban, ngành và các cấp chính quyền, sự nỗ lực và ý thức làm chủ đất nước của
nhân dân, trong lĩnh vực giáo dục đã gặt hái được những thành tựu to lớn, đáng
kể, góp phần xứng đáng vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc trong cuộc kháng
chiến 9 năm trường kỳ, gian khổ, cam go. Nền giáo dục mới của nước Việt Nam
DCCH là một nền giáo dục phục vụ mục tiêu “kháng chiến, kiến quốc”, đáp ứng được những yêu cầu thực
tiễn của một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, với những thành tích to
lớn, với bước tiến dài chưa từng có.
Download
toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC
[1] Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận,
Nxb Văn học, 1981, tr. 121.
[2] Hồ Chí Minh, Văn hoá
nghệ thuật cũng là một mặt trận, Sđd, tr. 123.
[3] Việt Nam quốc dân công báo, số 1, ngày
29-9-1945.
[4] Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
1995, tr. 88.
[5] Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo
dục, Sđd, tr. 24.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!