Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2013

KIỂM SOÁT LỢI ÍCH NHÓM –TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ GIÁM SÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC


Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Lợi ích nhóm được hình thành từ rất sớm, là một hiện tượng lịch sử - xã hội khách quan. Các nhà nước, các thể chế chính trị tiến bộ đều tìm biện pháp kiểm soát lợi ích nhóm, khuyến khích những lợi ích nhóm tích cực, hạn chế những lợi ích nhóm đặc quyền, đặc lợi, phục vụ mục tiêu phát triển xã hội lành mạnh. Bài viết tập trung làm rõ khái niệm "lợi ích nhóm", "nhóm lợi ích"; làm sáng tỏ nguyên nhân chính yếu phát sinh, nuôi dưỡng những nhóm lợi ích đặc quyền, đề xuất một số giải pháp kiểm soát lợi ích nhóm.
"Lợi ích nhóm" là khái niệm và vấn đề không mới, song cùng với thời gian, nó ngày càng được càng nhà nghiên cứu, các nhà quản lý quan tâm, nhất là trong những xã hội đang phát triển. Lợi ích nhóm là hệ quả của xu thế đa dạng hóa về lợi ích do phát triển đem lại. Chính vì thế, lợi ích nhóm không đồng nghĩa với tiêu cực như người ta vẫn thường hình dung, mà có tính hai mặt. Vấn đề là phải có một cơ chế kiểm soát, thúc đẩy để phát huy mặt tích cực, kiềm chế, triệt tiêu mặt tiêu cực.

1. Lợi ích nhóm và nhóm lợi ích
Lợi ích từ lâu đã được thừa nhận là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội; sự công bằng lợi ích là một trong những thước đo của công bằng xã hội. Trong xã hội có giai cấp, tất yếu xuất hiện mâu thuẫn lợi ích và cách thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích có thể biến lợi ích thành động lực hoặc phản động lực đối với xã hội và công bằng xã hội. 
Hiện nay, khi phân loại lợi ích, phổ biến cách phân chia theo ba tầng nấc: Lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích tổng thể, trong đó: 1- Lợi ích cá nhân bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của mỗi cá nhân; 2- Lợi ích nhóm là lợi ích của một nhóm người, có mối liên kết hoạt động, có mục tiêu tương đối chung, có ý thức liên kết để đạt được mục tiêu ấy[1]; 3- Lợi ích tổng thể là lợi ích chung của toàn xã hội, của quốc gia, vùng, hoặc toàn cầu. Nằm ở tầng nấc thứ hai, lợi ích nhóm giữ vai trò chủ đạo, có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích cá nhân và lợi ích tổng thể. Như vậy, nền tảng – dựa trên đó hình thành cấu trúc, cơ chế hoạt động của xã hội chính là lợi ích.
Từ lợi ích nhóm, hình thành nên những nhóm lợi ích (Interest Group). Xã hội là một hệ thống lợi ích phức tạp cùng với sự tương tác lợi ích trong từng nhóm, hoặc giữa các nhóm khác nhau trong trạng thái cạnh tranh, đấu tranh liên tục để nắm giữ bằng được quyền sở hữu, phân phối nguồn lực công và quyền được tham gia vào quá trình định hình, thông qua, xác lập các quyết định, chính sách thuộc về quyền lực nhà nước, với mục đích có được lợi thế, ưu thế, lợi ích vượt trội. Theo A. Bentley, “không hình thành, tồn tại các nhóm đứng ngoài lợi ích. Xã hội – Đó là một tổng hợp của các nhóm lợi ích khác nhau, số lượng của chúng bị quy định và giới hạn bởi một chỉ số duy nhất: Lợi ích – cái mà từ đó chúng liên kết, hình thành và hoạt động”[2]. Nhóm lợi ích còn được coi là một loại hình tập hợp người đặc biệt - “nhóm gây áp lực”, hình thành, tồn tại trên cơ sở một, một vài, hoặc nhiều lợi ích chung - vì nó mà nhóm –tập hợp người tìm mọi phương thức, con đường tác động tới chính sách công, hòng đảm bảo và mang lại lợi ích cho nhóm một cách cao nhất có thể. Động cơ hành động của nhóm lợi ích có thể mang tính chất chính trị, kinh tế, đạo đức, niềm tin… tùy vào từng nhóm cụ thể. Nhóm lợi ích sử dụng những phương thức khác nhau để đạt mục tiêu: Truyền thông, vận động hành lang, tài trợ…Đặc điểm chính để nhận diện nhóm lợi ích là mức độ của lợi ích nhóm. Mức độ lợi ích ấy có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với mặt bằng xã hội trong từng giai đoạn, hoặc trong những thời điểm nhất định. Mức độ lợi ích của nhóm đóng vai trò chỉ số tổng hợp, cơ bản, quan trọng, phản ánh vị thế và khả năng tác động của nhóm đến chính sách Nhà nước. Lưu ý thêm rằng, không chỉ những nhóm có ưu thế trong xã hộmới có khả năng tác động đến quá trình hoạch định chính sách của Nhà nước, mà những nhóm có vị thế yếuhoặc nhóm chịu nhiều tổn thất cũng có thể có những tác động nhất định đến nội dung chính sách. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào tính nhân văn và minh bạch của nền chính trị.
Sự tồn tại của các nhóm lợi ích và đồng hành cùng với chúng là cạnh tranh lợi ích giữa các nhóm trong xã hội là một hiện thực khách quan. Nhóm lợi ích có tính hai mặt. Dưới góc độ công bằng xã hội, một mặt, sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhóm lợi ích tác động tích cực tới đảm bảo công bằng xã hội, tạo các động lực cơ bản thúc đẩy phát triển xã hộimặt khác, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các nhóm lợi ích, nhất là trong các nền chính trị không minh bạch, thông qua hình thức vận động hành lang (Lobby), nhằm tác động tới cách thức, tỷ lệ phân bổ lợi ích của nhà nước, để tạo dựng và thụ hưởng đặc quyền, đặc lợi là nguy cơ trực tiếp đối với công bằng xã hội, hủy hoại tiến bộ xã hội. Luận giải trên đây cho thấy, tiếp cận lợi ích nhóm không thể tách rời sự tiếp cận chính trị và quyền lực chính trị, theo đó, tiếp cận chính trị không thể chỉ giới hạn ở các hình thức pháp luật, hoạt động của các tổ chức chính trị, các Đảng phái chính trị…, mà cần tiếp cận từ vấn đề sâu xa, cội rễ nhất: Đáp ứng lợi ích – yếu tố khiến con người tự nguyện liên kết trong các nhóm có cùng mục đích chính trị, thông qua thực hiện mục đích chính trị để đạt tới, đảm bảo lợi ích cao nhất.
Chính vì thế, vấn đề quan trọng nhất, song cũng khó khăn, phức tạp nhất của vận hành, quản trị xã hội là thực hiện phối, kết hợp lợi ích của các nhóm cụ thể với lợi ích của xã hội như một toàn thể. Kết quả của thao tác chính trị đó quy định sự ổn định xã hội, của toàn bộ hệ thống chính trị, tính hợp pháphiệu quả của chính phủ, sự năng động của phong trào xã hội và uy tín của Đảng cầm quyền. Xã hội tuy bị ràng buộc, chế định, chi phối bởi điều kiện kinh tế - văn hóa, chuẩn mực pháp luật và đạo đức, song yếu tố chi phối quyết định nhất, căn bản nhất, trực tiếp nhất là hệ thống chính trị; trong đó, vấn đề sâu xa, cội rễ nhất là vấn đề quyền lực chính trị/quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị thiếu kiểm soát, hoặc kiểm soát không chặt chẽ là bà đỡ của những nhóm lợi ích bất minh.
2. Quyền lực nhà nước và nhóm lợi ích
Với sự tồn tại, đấu tranh của các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội, để thúc đẩy xã hội phát triển bền vững, vấn đề chất lượng thể chế chính trị thể hiện qua khả năng, mức độ kiểm soát quyền lực chính trị/quyền lực nhà nước có ý nghĩa sống còn.
 Nếu “thể chế chính trị là tổng hợp các phương pháp và cách thức thực hiện quyền lực nhà nước do tình hình chính trị trong nước chi phối”[3], thì “điểm cốt yếu nhất, quyết định nhất đến thể chế chính trị là bản chất, hình thức, tính chất của quyền lực nhà nước, chính trị hiện hành”[4]; do đó, để “bản chất, hình thức, tính chất của quyền lực nhà nước” thực sự thuộc về số đông, đảm bảo lợi ích cho số đông, đảm bảo công bằng xã hội cho tất cả mọi người, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, chống tập trung quyền lực được đặt ra từ rất sớm và luôn luôn tồn tại một khi còn tồn tại nhà nước. Ở nhiều quốc gia, kể cả các quốc gia có thể chế chính trị tương đối hoàn thiện, việc tiếp tục xây dựng, hiện đại hóa cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước – tạo lập một cơ chế có khả năng khuyến khích tối đa ảnh hưởng tích cực của nhóm lợi ích (phân bổ công bằng lợi ích nhóm), cũng như giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của nhóm lợi ích (phân bổ lợi ích bất công giữa các nhómkìm chế tiềm năngtước đoạt điều kiện phát triển) vẫn luôn được chú trọng. Bàn về vấn đề này, nhà xã hội học người Mỹ Frank Scarpatti nêu quan điểm: “Mục tiêu của công bằng xã hội chỉ có thể thực hiện thông qua một chính sách làm giảm sự tập trung quyền lực và những nguồn tài nguyên kinh tế trong tay một tầng lớp nhỏ đặc quyền của xã hội”[5]. Thật vậy, tập trung quyền lực vượt ngưỡng/vượt chỉ giới gắn liền với tha hóa tinh thần, đạo đức, bởi đã là con người thì khó tránh khỏi ít nhiều thiên kiến và vị kỷ. Một trong những yếu điểm của con người là bị chi phối, điều khiển bởi khát vọng quyền lực. Quyền lực là một thứ “ma túy” và khi quyền lực tập trung ở những con người khát quyền lực trong môi trường thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực, hoặc cơ chế kiểm soát quyền lực yếu kém sẽ trở thành thứ “ma túy” mạnh đẩy con người vào ảo giác, ngộ nhận lợi ích cá nhân của mình chính là lợi ích của xã hội –bước đi cuối cùng để biến thành nhà độc tài. Đại đa số trường hợp tập trung quyền lực là cha đẻ của độc tài và gia đình trị. Philippines là một ví dụ điển hình: 178 gia tộc[6] kiểm soát 72 tỉnh (94%của Philippines. Trong số 178 gia tộc, 100 gia tộc là giới tinh hoa cũ (thuộc những tập đoàn chính trị hàng đầu của Philippines từ sau chiến tranh thế giới thứ hai), 78 gia tộc còn lại là giới tinh hoa mới (sau năm 1986)[7]Cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Philippines Jose Almonte nhận xét: “Độc quyền quyền lực chính trị cản trở dân chủ hóa đời sống chính trị, sinh ra và nuôi dưỡng chế độ gia đình trị”[8].
Tập trung và độc quyền quyền lực sẽ nhanh chóng sản sinh ra một số nhóm lợi ích theo nghĩa nhóm đặc quyền, đặc lợi - nhóm lợi ích nhỏ về số lượng người trong tập hợp nhóm, song có điều kiện nhận những lợi ích lớn nhờ khả năng hoặc tác động mạnh mẽ, hoặc trực tiếp tham gia vào quá trình ra quyết sách của chính quyền, nhà nước. Những nhóm lợi ích đặc quyền, đặc lợi ấy - những “thế lực” lớn, liên kết những cá nhân đơn lẻ nhưng lại có điều kiện, khả năng kết nối chính trị với kinh tế, sử dụng chính trị để trục lợi kinh tế, dùng lợi ích kinh tế để củng cố quyền lực chính trị càng có điều kiện gia tăng, trở thành hiện tượng nhức nhối của xã hội khi thiếu cơ chế, phương thức kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước. Lợi ích thu được từ chính sách và ảnh hưởng chính sách vô cùng to lớn, nó lớn hơn bất cứ thứ lợi nhuận nào có được từ sản xuất, hoặc kinh doanh trực tiếp; do vậy, những nhóm đặc quyền, đặc lợi luôn mưu cầu tác động tới quá trình hoạch định chính sách của các cấp quản lý, của nhà nước, thực hiện các hoạt động “tham nhũng chính sách”.
Như vậy, một thể chế chính trị được coi là văn minh khi có hệ thống pháp luật hoàn thiện, tạo thế đối trọng giữa các nhóm lợi ích; “chủ động phát triển cơ chế đề kháng thông qua các quá trình tự cải tổ, đổi mới liên tục, thường xuyên, lâu dài, không ngừng trệ”[9]; đồng thời, phân chia quyền lực cho các thành phần khác nhau của bộ máy công quyền - giám sát và cân bằng quyền lực. Thể chế chính trị được coi là minh bạch, tiến bộ khi có khả năng hóa giải xung đột nhóm lợi ích, đạt tới cách thức phân bổ lợi ích thỏa đáng, làm cho lợi ích phát huy giá trị động lực, kích thích tối đa khả năng đóng góp, hạn chế tối đa khả năng gây hại của các nhóm lợi ích cho xã hội.
3- Lợi ích nhóm ở Việt Nam hiện nay và cơ chế kiểm soát
Với tư cách là một hiện tượng xã hội, nhóm lợi ích ở Việt Nam tồn tại trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực, song gần đây, sự chú ý chủ yếu được tập trung vào các nhóm lợi ích đặc quyền, đặc lợi (còn được gọi là “nhóm thân hữu”), hình thành có tổ chức, bành trướng thế lực, thao túng và độc quyền trong một số lĩnh vực, đặc biệt là chính trị và kinh tế, thương mại hóa quyền lực chính trị. Sự thao túng của các nhóm lợi ích đối với bất động sản, tài nguyên, ngân hàng, tài chính… - những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, gây không ít khó khăn, cản trở cho sự tồn tại, phát triển lành mạnh của đất nước. Một hình thức phổ biến của nhóm lợi ích kiểu này là những công ty "sân sau" của các công ty Nhà nước hoặc cổ phần Nhà nước, hoặc những tập đoàn độc quyền, ảnh hưởng trực tiếp đến phân phối công bằng các lợi ích cho các thành phần trong xã hội, nhất là đối với các nhóm yếu thế. Có một hiện thực là ở Việt Nam hiện nay, cơ chế vận hành xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước còn nhiều hạn chế, thiếu hiệu quả - đó là mảnh đất mầu mỡ để các nhóm lợi ích thao túng, thâu tóm những lợi ích của sự phát triển, tạo sự bất công, bất bình đẳng trong xã hộilàm méo mó quan hệ xã hội, làm tăng khoảng cách giàu nghèo và gây bất ổn xã hội.  Những nhóm lợi ích hoạt động ngầm câu kết với các cấp ra chính sách, hoặc có khả năg tác động đến chính sách, gây tổn hại đến lợi ích của các nhóm khác, lợi ích của số đông và lợi ích quốc gia không chỉ để lại những thiệt hại vật chất của xã hội, mà còn làm xói mòn lòng tin của nhân dân, thậm chí đẩy nhân dân đứng đối lập với Nhà nước.
Không hiếm gặp trường hợp “tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất”5 bị bóp méo, bẻ cong, bị lợi dụng, dẫn đến dân chủ hình thức, tập trung quyền lực, độc quyền quyền lực, lũng đoạn chính sách, biến quyền lực được nhân dân và Nhà nước giao phó thành quyền lực cá nhân, trục lợi cho bản thân, cho nhóm lợi ích mà họ thuộc về. Lợi ích và cách thức chiếm đoạt lợi ích, bảo vệ lợi ích của nhóm đặc quyền, đặc lợi đẩy họ đứng đối lập với đa số tập hợp người khác trong xã hội, đối lập với nhân dân. Nhóm lợi ích này là nguồn gốc của bất công, bất bình đẳng, bất công bằng xã hội, là vật cản sự phát triển một xã hội lành mạnh, là nguy cơ trực tiếp đối với tồn vong chế độ. Sự hình thành, tồn tại những nhóm lợi ích đặc quyền, đặc lợi, một mặt, có nguyên nhân và phản ánh sự tha hóa, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ thuộc về bộ máy quyền lực nhà nước; mặt khác, cho thấy cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt tình trạng pháp quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) của hệ thống chính trị Việt Nam vẫn tồn tại không ít “kẽ hở”, “lỗ hổng”, chưa đóng vai trò thực sự điều chỉnh hành vi, nhận thức của xã hội, cá nhân và tổ chức, chưa làm tròn vai trò phản tỉnh đối với xã hội. Như vậy, trong rất nhiều điểm “nghẽn” chi phối quá trình kiểm soát lợi ích nhóm, triệt tiêu những “nhóm lợi ích ngược”, vấn đề cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước được coi là những nội dung chủ chốt, trọng yếu, cần giải quyết trước hết, đầu tiên. Đây là vấn đề khó, đòi hỏi thời gian, nhận thức, nỗ lực của nhiều lực lượng xã hội; đồng thời, cũng sẽ vấp phải sự chống đối, cản trở của không ít lực lượng xã hội. Để bước đầu giải quyết vấn đề nêu trên, trước tiên, cần tập trung vào những giải pháp chủ yếu:
Một là, xây dựng cơ chế hoạch định chính sách, ra quyết định minh bạch, khoa học. Chính sách phải được hoạch định vì lợi ích của số đông, vì sự phát triển lâu dài, bền vững của xã hội, đảm bảo công bằng xã hội. Muốn vậy, khi hoạch định chính sách, nhất là những chính sách lớn, vĩ mô, nội dung, mục tiêu, phạm vi điều chỉnh….cần được thông tin rộng rãi, bố cáo với toàn xã hội. Đây là những thông tin vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi, số phận người dân; do vậy, để tiêu trừ những yếu tố gây nên bất bình đẳng xã hội, tạo điều kiện để nảy sinh, phát triển các “nhóm lợi ích ngược” tác động lên quá trình hoạch định chính sách, người dân, nhất là những nhóm người thuộc phạm vi điều chỉnh của chính sách phải được tiếp cận thông tin.Thiếu minh bạch thông tin là một hình thức gây “mù chính trị”, “gây nhiễu” chính trị, bịt mắt nhân dân, hạn chế giác ngộ chính trị, hạn chế quyền làm chủ, hạn chế thực hiện dân chủ trực tiếp của người dân, tạo cơ hội, kẽ hở cho tầng lớp đặc quyền đặc lợi tồn tại, lộng hành, trục lợi bất chính, làm gia tăng các nhóm lợi ích có hại cho xã hội.
Bên cạnh đó, xây dựng cơ chế hoạch định chính sách, để các nhà khoa học, các chuyên gia, các đối tượng bị ảnh hưởng bởi chính sách tham gia đề xuất ý tưởng, xây dựng các phương án… Cần tạo cơ hội, điều kiện, cơ chế cho đối thoại và phản biện xã hội một cách thực chất, coi đó là những kênh quan trọng để hoàn thiện chính sách. Cũng cần tách bạch giữa hoạch định chính sách và thực thi chính sách, nhằm giảm thiểu khả năng trục lợi từ chính sách của cá nhân/cơ quan hoạch định chính sách. Nói cách khác, khi hoạch định chính sách, các cơ quan có trách nhiệm phải chuyên tâm cho lợi ích của số đông, biết “nghe dân”, “trọng dân”, “vì dân”.
Hai là, lành mạnh hóa bộ máy công quyền. Như đã phân tích, tập trung quyền lực là điều kiện thuận lợi biến quyền lực nhà nước – quyền lực do nhân dân ủy quyền/giao quyền thành công cụ, phương tiện phục vụ mục đích cá nhân, phục vụ lợi ích nhóm. Đó là thứ "ung nhọt", là "kẻ thù bên trong" nguy hiểm, là thứ vi trùng độc hại len lỏi vào bộ máy nhà nước, từng ngày, từng giờ giết chết năng lực quản lý của bộ máy, biến quyền lực nhân dân giao phó thành vũ khí chống nhân dân. Do vậy, chống tập quyền, lành mạnh hóa bộ máy công quyền là đặc biệt cần thiết. Một khi quyền lực nhà nước được phân công hợp lý, khoa học, các thành phần của bộ máy quyền lực buộc phải hoạt động trong mối quan hệ ràng buộc, thương thảo, lắng nghe và hợp tác công bằng. Đó cũng là con đường khiến cho bộ máy quyền lực vừa thông minh, khoa học hơn trong quản trị xã hội, vừa có sức đề kháng trước áp lực của các nhóm lợi ích tìm cách tác động tới chính sách để trục lợi.
Có nhiều cách thiết kế mô hình giám sát và cân bằng quyền lực khác nhau, song tính độc lập giữa các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được coi là nguyên tắc bất biến. Cần lưu ý rằng, không có một hệ thống hiến định nào hoàn hảo hay đạt mọi mục đích đặt ra, song điều quan trọng là hệ thống ấy phải coi phân quyền như một mục tiêu đầu tiên, quyết định, xuyên suốt, tối thượng; dựa trên đó, cân nhắc các vấn đề cụ thể phục vụ cho mục tiêu chính yếu. Trên cơ sở đó, những nhược điểm, yếu kém của bộ máy công quyền sẽ được khắc phục, giảm thiểu.
Ba là, thiết lập và thực hiện nghiêm minh chế độ bãi miễn đối với lãnh đạo mất tín nhiệm. Bộ máy nhà nước chỉ có được sự tin tưởng của nhân dân khi đội ngũ cán bộ, đặc biệt là những cán bộ lãnh đạo cấp cao tận tâm, tận lực với công việc, sử dụng đúng đắn quyền lực mà nhân dân giao phó để làm lợi cho nhân dân. Tuy nhiên, nếu quyền lực không được kiểm soát, cán bộ lãnh đạo, quản lý dễ mắc những bệnh như quan liêu, xa rời quần chúng, hách dịch, lạm quyền, ức hiếp nhân dân, câu kết bè cánh vơ vét quyền lợi, tài sản…, khiến niềm tin của nhân dân vào bộ máy nhà nước bị lung lay, xói mòn, gây nên tâm trạng bất mãn, thậm chí chống đối, ảnh hưởng đến ổn định xã hội. Vì thế, trên tinh thần cán bộ chức vụ càng cao, trách nhiệm càng nặng nề, chịu sự kiểm tra, giám sát càng nghiêm ngặt của nhân dân, những cán bộ mất tín nhiệm phải lập tức bị bãi miễn, bị xử lý nghiêm minh,  mang tính răn đe, nhằm làm trong sạch bộ máy chính quyền. Muốn vậy, cần tăng cường sức mạnh, quyền hạn của các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát; đồng thời, xây dựng cơ chế để nhân dân có thể trực tiếp tham gia vào quá trình bãi miễn những quan chức thoái hóa, biến chất, phạm tội. Chỉ dưới áp lực đó, người lãnh đạo, bộ máy lãnh đạo mới thực sự toàn tâm, toàn ý, toàn lực cống hiến, phục vụ nhân dân, phục vụ lợi ích của đa số.
Bốn là, đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật. Một nhà nước lý tưởng là nhà nước có những đạo luật công bằng được thiết lập trên cơ sở trí tuệ và lợi ích quốc gia. Một xã hội văn minh và tiến bộ là một xã hội trong đó mỗi người dân đều lấy sự tôn trọng đối với luật pháp làm thước đo đạo đức, làm cơ sở quan hệ giữa người với người, cơ sở quan hệ xã hội, coi đó là động lực phát triển xã hội. Tuy nhiên, tính thượng tôn của pháp luật được đảm bảo phải trên cơ sở tự nguyện, chứ không phải dưới sự cưỡng bách. Chủ thể xã hội – công dân chỉ có thể tự nguyện tôn trọng pháp luật nếu có hai điều kiện: 1-Tính hoàn thiện, đúng đắn, nhân văn của hệ thống pháp luật; 2-Bảo đảm của Nhà nước về sự nghiêm minh trong thực hành luật pháp. Đó là một hệ thống pháp luật đáp ứng được niềm tin của xã hội bằng sự công bằng, chính đáng, công lý trong từng nội dung pháp luật và thực hiện luật. Như vậy, thượng tôn pháp luật không đơn thuần là tôn trọng, đề cao pháp luật, mà còn là yêu cầu về một hệ thống pháp luật hoàn hảo với quyền lực của pháp luật trở thành quyền lực tối thượng, bất phân thân sơ, bất phân địa vị, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Một cách tổng quát, đảm bảo lợi ích chính đáng cho số đông, loại trừ những nhóm lợi ích bất minh là nghĩa vụ và bản chất của một nhà nước thân dân, gần dân, gắn bó với dân, yêu dân, trọng dân. Tinh thần ấy, thiết nghĩ, phải được thấu triệt và biến thành hành động cụ thể trong nhận thức, trong từng bước đi, trong từng bước phát triển và trong suốt quá trình phát triển ở Việt Nam hiện nay, nhất là trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền. Chỉ có như vậy, Việt Nam mới tránh được nguy cơ tụt hậu, không đánh mất cơ hội phát triển, mới có sự đồng thuận xã hội để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc và quan trọng nhất, để tồn tại và vươn lên ngang hàng với các quốc gia tiến bộ, văn minh.

[1] Allan J. Cigler and Burdett A. Loomis: Interest Group Politics, Congressional Quarterly Press, 1995, p. 89.
[2] А. Бентли: Процесс управления, Изд. “Автор”, Москва, 1996, c. 144 (Tiếng Việt: A.Bentlin, Quá trình quản lý, Nxb Aftor, M, 1996, tr. 144).
[3] http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn
[4] http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn
[5] Frank Scarpatti: Social Problems, Dreyden Press USA, 1977, p. 632.
[6] Một dòng họ/gia đình/gia tộc được liệt vào hệ thống gia đình trị (political family) khi có hai thành viên trở lên (tính đến huyết thống đời thứ ba) chiếm giữ vị trí trong quốc hội hoặc bộ máy chính quyền bang.
[7] Monopoly of political power,  GMA News, 6-11-2012.
[8] Monopoly of political power, Ibid.
[9]  Rawls, J. A: Theory of justice, N. Y, 1971, p. 60.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tr 52.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!