Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại
học Quốc gia Hà Nội
Lợi ích nhóm được hình thành từ rất sớm, là
một hiện tượng lịch sử - xã hội khách quan. Các nhà nước, các thể chế chính trị
tiến bộ đều tìm biện pháp kiểm soát lợi ích nhóm, khuyến khích những lợi ích
nhóm tích cực, hạn chế những lợi ích nhóm đặc quyền, đặc lợi, phục vụ mục tiêu
phát triển xã hội lành mạnh. Bài viết tập trung làm rõ khái niệm "lợi ích
nhóm", "nhóm lợi ích"; làm sáng tỏ nguyên nhân chính yếu phát sinh,
nuôi dưỡng những nhóm lợi ích đặc quyền, đề xuất một số giải pháp kiểm soát lợi
ích nhóm.
"Lợi ích nhóm" là khái niệm và vấn
đề không mới, song cùng với thời gian, nó ngày càng được càng nhà nghiên cứu,
các nhà quản lý quan tâm, nhất là trong những xã hội đang phát triển. Lợi ích
nhóm là hệ quả của xu thế đa
dạng hóa về lợi ích do phát triển đem lại. Chính vì thế, lợi ích nhóm không
đồng nghĩa với tiêu cực như người ta vẫn thường hình dung, mà có tính hai mặt.
Vấn đề là phải có một cơ chế kiểm soát, thúc đẩy để phát huy mặt tích cực, kiềm
chế, triệt tiêu mặt tiêu cực.
1. Lợi ích nhóm và nhóm lợi ích
Lợi ích từ lâu đã được thừa nhận là động lực thúc đẩy sự phát
triển của xã hội; sự công bằng lợi ích là một trong những thước
đo của công bằng xã hội. Trong xã hội có giai cấp, tất yếu xuất hiện mâu thuẫn
lợi ích và cách thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích có thể biến lợi ích thành
động lực hoặc phản động lực đối với xã hội và công bằng xã hội.
Hiện nay, khi phân loại lợi ích, phổ biến cách phân chia theo ba
tầng nấc: Lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích tổng thể, trong đó: 1- Lợi ích
cá nhân bao
gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của mỗi
cá nhân; 2- Lợi ích
nhóm là
lợi ích của một nhóm người, có mối liên kết hoạt động, có mục tiêu tương đối chung, có ý thức liên kết để
đạt được mục tiêu ấy[1]; 3- Lợi ích tổng thể là lợi ích chung của toàn xã hội, của quốc gia,
vùng, hoặc toàn cầu. Nằm ở tầng nấc thứ hai, lợi ích nhóm giữ vai trò chủ đạo,
có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích cá nhân và lợi ích tổng thể. Như vậy, nền
tảng – dựa trên đó hình thành cấu trúc, cơ chế hoạt động của xã hội chính là
lợi ích.
Từ lợi ích nhóm, hình thành nên những nhóm lợi ích (Interest Group). Xã hội là một hệ thống lợi ích phức tạp cùng với sự tương tác lợi ích trong từng nhóm, hoặc giữa các nhóm khác nhau trong trạng thái cạnh tranh, đấu tranh
liên tục để nắm giữ bằng được quyền sở hữu, phân phối nguồn lực công và quyền
được tham gia vào quá trình định hình, thông qua, xác lập các quyết định, chính
sách thuộc về quyền lực nhà nước, với mục đích có được lợi thế, ưu thế, lợi ích
vượt trội. Theo A. Bentley, “không hình thành, tồn tại các nhóm đứng
ngoài lợi
ích. Xã hội – Đó là một tổng hợp của các nhóm lợi ích khác nhau, số lượng của chúng bị quy định và giới hạn bởi
một chỉ số duy nhất: Lợi ích – cái mà từ đó chúng liên kết, hình thành và hoạt
động”[2]. Nhóm lợi ích còn được coi là
một loại hình tập hợp người đặc biệt - “nhóm gây áp lực”, hình thành, tồn tại
trên cơ sở một, một vài, hoặc nhiều lợi ích chung - vì nó mà nhóm –tập
hợp người tìm mọi phương thức, con đường tác động tới chính sách công,
hòng đảm bảo và mang lại lợi ích cho nhóm một cách cao nhất có thể. Động cơ
hành động của nhóm lợi ích có thể mang tính chất chính trị, kinh tế, đạo đức,
niềm tin… tùy vào từng nhóm cụ thể. Nhóm lợi ích sử dụng những phương thức khác
nhau để đạt mục tiêu: Truyền thông, vận động hành lang, tài trợ…Đặc điểm chính để nhận diện
nhóm lợi ích là mức độ của lợi ích nhóm. Mức độ lợi ích ấy có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với mặt bằng xã hội trong từng giai đoạn, hoặc trong những thời điểm nhất định. Mức độ lợi ích của nhóm đóng vai trò chỉ số tổng hợp, cơ bản, quan trọng, phản ánh vị thế và
khả năng tác động của nhóm đến chính sách Nhà
nước. Lưu ý thêm rằng, không chỉ những nhóm có ưu
thế trong xã hội mới có khả năng tác động
đến quá trình hoạch định chính sách của Nhà nước, mà những nhóm có vị thế yếu, hoặc nhóm chịu nhiều tổn thất cũng có thể có những tác động nhất định đến nội dung chính sách. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào tính nhân văn
và minh bạch của nền chính trị.
Sự
tồn tại của các nhóm lợi ích và
đồng hành cùng với chúng là cạnh tranh lợi ích giữa các nhóm trong xã hội là
một hiện thực khách quan. Nhóm lợi ích có tính hai mặt. Dưới góc độ công
bằng xã hội, một mặt, sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhóm lợi ích
tác động tích cực tới đảm bảo công bằng xã hội, tạo các động lực cơ bản thúc
đẩy phát triển xã hội; mặt khác,
sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các nhóm lợi ích, nhất là trong các nền
chính trị không minh bạch, thông qua hình thức vận động hành lang (Lobby), nhằm tác động tới cách thức, tỷ lệ phân bổ lợi ích của nhà nước, để tạo dựng và thụ hưởng đặc quyền, đặc
lợi là nguy cơ trực
tiếp đối với công bằng xã hội, hủy hoại tiến bộ xã hội. Luận giải
trên đây cho thấy, tiếp cận lợi ích nhóm không thể tách rời sự tiếp cận chính
trị và quyền lực chính trị, theo đó, tiếp cận chính trị không thể chỉ giới hạn
ở các hình thức pháp luật, hoạt động của các tổ chức chính trị, các Đảng phái
chính trị…, mà cần tiếp cận từ vấn đề sâu xa, cội rễ nhất: Đáp ứng lợi ích –
yếu tố khiến con người tự nguyện liên kết trong các nhóm có cùng mục đích chính
trị, thông qua thực hiện mục đích chính trị để đạt tới, đảm bảo lợi ích cao
nhất.
Chính vì thế, vấn đề quan trọng nhất, song cũng khó khăn, phức tạp
nhất của vận hành, quản trị xã hội là thực hiện phối, kết hợp lợi ích của các nhóm cụ thể với lợi ích của xã hội như một toàn
thể. Kết quả của thao tác chính trị đó
quy định sự ổn định xã hội, của toàn bộ hệ thống chính trị, tính hợp pháp, hiệu quả của chính phủ, sự năng động của
phong trào xã hội và uy tín của Đảng
cầm quyền. Xã hội tuy bị ràng buộc, chế định, chi phối bởi điều
kiện kinh tế - văn hóa, chuẩn mực pháp luật và đạo đức, song yếu tố chi phối
quyết định nhất, căn bản nhất, trực tiếp nhất là hệ thống chính trị; trong đó,
vấn đề sâu xa, cội rễ nhất là vấn đề quyền lực chính trị/quyền lực nhà nước.
Quyền lực chính trị thiếu kiểm soát, hoặc kiểm soát không chặt chẽ là bà đỡ của
những nhóm lợi ích bất minh.
2. Quyền lực nhà nước và nhóm lợi ích
Với sự tồn tại, đấu tranh của các nhóm lợi ích khác nhau trong xã
hội, để thúc đẩy xã hội phát triển bền vững, vấn đề chất lượng thể chế chính trị thể hiện qua khả năng, mức độ
kiểm soát quyền lực chính trị/quyền lực nhà nước có ý nghĩa sống còn.
Nếu “thể chế chính trị là tổng hợp các phương pháp và
cách thức thực hiện quyền lực nhà
nước do tình hình chính trị trong nước chi
phối”[3], thì “điểm cốt yếu nhất, quyết
định nhất đến thể chế chính trị là bản chất, hình thức, tính chất của quyền lực
nhà nước, chính trị hiện hành”[4]; do đó, để “bản chất, hình thức, tính
chất của quyền lực nhà nước”
thực sự thuộc về số đông, đảm bảo lợi ích cho số đông, đảm bảo công bằng xã hội
cho tất cả mọi người, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, chống tập
trung quyền lực được đặt ra từ rất sớm và luôn luôn tồn tại một khi
còn tồn tại nhà nước. Ở nhiều quốc gia, kể cả các quốc gia có thể chế chính trị
tương đối hoàn thiện, việc tiếp tục xây dựng, hiện đại hóa cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước – tạo lập một
cơ chế có
khả năng khuyến khích tối
đa ảnh
hưởng tích cực của nhóm lợi ích
(phân bổ công bằng lợi ích nhóm), cũng như giảm thiểu ảnh hưởng
tiêu cực của nhóm lợi ích (phân bổ lợi ích bất công giữa các nhóm, kìm chế tiềm năng, tước đoạt điều kiện phát triển) vẫn luôn được chú trọng. Bàn về vấn đề này,
nhà xã hội học người Mỹ Frank Scarpatti nêu quan điểm: “Mục tiêu của công bằng
xã hội chỉ có thể thực hiện thông qua một chính sách làm giảm sự tập trung
quyền lực và những nguồn tài nguyên kinh tế trong tay một tầng lớp nhỏ đặc
quyền của xã hội”[5]. Thật vậy, tập trung quyền lực vượt ngưỡng/vượt chỉ giới gắn liền với
tha hóa tinh thần, đạo đức, bởi đã là con người thì khó tránh khỏi ít nhiều thiên kiến và vị
kỷ. Một trong những
yếu điểm của con người là bị chi phối, điều khiển bởi khát vọng quyền lực. Quyền lực là một thứ “ma túy” và khi quyền lực
tập trung ở những con người khát quyền lực trong môi trường thiếu cơ chế kiểm
soát quyền lực, hoặc cơ chế kiểm soát quyền lực yếu kém sẽ trở thành thứ “ma
túy” mạnh đẩy con người vào ảo giác, ngộ nhận lợi ích cá nhân
của mình chính là lợi ích của
xã hội –bước đi cuối cùng
để biến thành nhà độc tài. Đại đa số trường hợp tập trung quyền lực là cha đẻ
của độc tài và gia đình trị. Philippines là một ví dụ điển hình: 178 gia tộc[6] kiểm soát 72 tỉnh (94%) của Philippines. Trong số 178 gia tộc, 100 gia tộc là giới tinh hoa cũ (thuộc những tập đoàn chính trị hàng đầu của Philippines từ sau chiến tranh thế giới thứ hai), 78 gia tộc còn lại là giới tinh hoa mới (sau năm 1986)[7]. Cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Philippines Jose
Almonte nhận xét: “Độc quyền quyền lực chính
trị cản trở dân chủ hóa đời sống chính trị, sinh ra và nuôi dưỡng chế độ
gia đình trị”[8].
Tập trung và độc quyền quyền lực sẽ nhanh chóng sản sinh ra một số
nhóm lợi ích theo nghĩa nhóm đặc quyền, đặc lợi - nhóm lợi ích
nhỏ về số lượng người trong tập hợp nhóm, song có điều kiện nhận những lợi ích
lớn nhờ khả năng hoặc tác động mạnh mẽ, hoặc trực tiếp tham gia vào quá trình
ra quyết sách của chính quyền, nhà nước. Những nhóm lợi ích đặc quyền, đặc lợi
ấy - những “thế lực” lớn, liên kết những cá nhân đơn lẻ nhưng lại có điều kiện,
khả năng kết nối chính trị với kinh tế, sử dụng chính trị để trục lợi kinh tế,
dùng lợi ích kinh tế để củng cố quyền lực chính trị càng có điều kiện gia tăng,
trở thành hiện tượng nhức nhối của xã hội khi thiếu cơ chế, phương thức kiểm
soát, giám sát quyền lực nhà nước. Lợi ích thu được từ chính sách và ảnh hưởng
chính sách vô cùng to lớn, nó lớn hơn bất cứ thứ lợi nhuận nào có được từ sản
xuất, hoặc kinh doanh trực tiếp; do vậy, những nhóm đặc quyền, đặc lợi luôn mưu
cầu tác động tới quá trình hoạch định chính sách của các cấp quản lý, của nhà
nước, thực hiện các hoạt động “tham nhũng chính sách”.
Như vậy, một thể chế chính trị được coi là văn minh khi có hệ
thống pháp luật hoàn thiện, tạo thế đối trọng giữa các nhóm lợi ích; “chủ động
phát triển cơ chế đề kháng thông qua các quá trình tự cải tổ, đổi mới liên tục,
thường xuyên, lâu dài, không ngừng trệ”[9]; đồng thời, phân chia quyền lực cho các
thành phần khác nhau của bộ
máy công quyền - giám sát và cân bằng quyền lực. Thể chế chính trị được coi là minh bạch, tiến
bộ khi có khả năng hóa giải xung đột nhóm lợi ích, đạt tới cách thức phân bổ
lợi ích thỏa đáng, làm cho lợi ích phát huy giá trị động lực, kích
thích tối đa khả năng đóng góp, hạn chế tối đa khả năng gây hại của các nhóm lợi ích cho xã hội.
3- Lợi ích nhóm ở Việt Nam hiện nay và cơ chế kiểm soát
Với tư cách là một hiện tượng xã hội, nhóm lợi ích ở Việt Nam tồn
tại trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực, song gần đây, sự chú ý chủ
yếu được tập trung vào các nhóm lợi ích đặc quyền, đặc lợi (còn được gọi là “nhóm
thân hữu”), hình thành có tổ chức, bành trướng thế lực, thao túng và độc quyền
trong một số lĩnh vực, đặc biệt là chính trị và kinh tế, thương mại hóa quyền
lực chính trị. Sự thao túng của các nhóm lợi ích đối với bất động sản, tài
nguyên, ngân hàng, tài chính… - những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, gây không ít
khó khăn, cản trở cho sự tồn tại, phát triển lành mạnh của đất nước. Một hình
thức phổ biến của nhóm lợi ích kiểu này là những công ty "sân
sau" của các công ty Nhà nước hoặc cổ phần Nhà nước, hoặc những tập đoàn độc quyền, ảnh hưởng trực tiếp đến phân phối công bằng các lợi
ích cho các thành phần trong xã hội, nhất là đối với các nhóm yếu thế. Có một hiện thực là ở Việt Nam
hiện nay, cơ chế vận hành xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật chưa hoàn
thiện, phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước còn nhiều hạn chế, thiếu hiệu
quả - đó là mảnh đất mầu mỡ để các nhóm lợi ích thao túng, thâu tóm những lợi ích của sự phát triển, tạo sự bất công, bất bình đẳng
trong xã hội, làm méo mó quan hệ xã hội,
làm tăng khoảng cách giàu nghèo và gây bất ổn xã hội. Những nhóm lợi ích hoạt động ngầm câu kết
với các cấp ra chính sách, hoặc có khả năg tác động đến chính sách, gây tổn hại đến lợi ích của các nhóm
khác, lợi ích của số đông và lợi ích quốc gia không chỉ để lại những thiệt hại vật chất của xã hội, mà còn
làm xói mòn lòng tin của nhân dân, thậm chí đẩy nhân dân đứng đối lập với Nhà
nước.
Không hiếm gặp trường hợp “tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất”5 bị bóp méo, bẻ cong, bị lợi dụng, dẫn đến dân chủ hình thức,
tập trung quyền lực, độc quyền quyền lực, lũng đoạn chính sách, biến quyền lực
được nhân dân và Nhà nước giao phó thành quyền lực cá nhân, trục lợi cho bản
thân, cho nhóm lợi ích mà họ thuộc về. Lợi ích và cách thức chiếm đoạt lợi ích,
bảo vệ lợi ích của nhóm đặc quyền, đặc lợi đẩy họ đứng đối lập với đa số tập
hợp người khác trong xã hội, đối lập với nhân dân. Nhóm lợi ích này là nguồn
gốc của bất công, bất bình đẳng, bất công bằng xã hội, là vật cản sự phát triển
một xã hội lành mạnh, là nguy cơ trực tiếp đối với tồn vong chế độ. Sự hình
thành, tồn tại những nhóm lợi ích đặc quyền, đặc lợi, một mặt, có
nguyên nhân và phản ánh sự tha hóa, suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ thuộc về bộ máy
quyền lực nhà nước; mặt khác, cho thấy cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước, đặc biệt tình trạng pháp
quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) của hệ thống chính trị Việt Nam vẫn tồn
tại không ít “kẽ hở”, “lỗ hổng”, chưa đóng vai trò thực sự điều chỉnh hành vi,
nhận thức của xã hội, cá nhân và tổ chức, chưa làm tròn vai trò phản tỉnh đối
với xã hội. Như vậy, trong rất nhiều điểm “nghẽn” chi phối quá trình kiểm soát
lợi ích nhóm, triệt tiêu những “nhóm lợi ích ngược”, vấn đề cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước được coi là những nội dung chủ chốt, trọng yếu, cần giải
quyết trước hết, đầu tiên. Đây là vấn đề khó, đòi hỏi thời gian, nhận thức, nỗ
lực của nhiều lực lượng xã hội; đồng thời, cũng sẽ vấp phải sự chống đối, cản trở
của không ít lực lượng xã hội. Để bước đầu giải quyết vấn đề nêu trên, trước
tiên, cần tập trung vào những giải pháp chủ yếu:
Một là, xây dựng cơ chế
hoạch định chính sách, ra quyết định minh bạch, khoa học. Chính sách phải được
hoạch định vì lợi ích của số đông, vì sự phát triển lâu dài, bền vững của xã
hội, đảm bảo công bằng xã hội. Muốn vậy, khi hoạch định chính sách, nhất là
những chính sách lớn, vĩ mô, nội dung, mục tiêu, phạm vi điều chỉnh….cần được
thông tin rộng rãi, bố cáo với toàn xã hội. Đây là những thông tin vô cùng quan
trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi, số phận người dân; do vậy, để tiêu
trừ những yếu tố gây nên bất bình đẳng xã hội, tạo điều kiện để nảy sinh, phát
triển các “nhóm lợi ích ngược” tác động lên quá trình hoạch định chính sách,
người dân, nhất là những nhóm người thuộc phạm vi điều chỉnh của chính sách phải
được tiếp cận thông tin.Thiếu minh bạch thông tin là một hình thức gây
“mù chính trị”, “gây nhiễu” chính trị, bịt mắt nhân dân, hạn chế giác ngộ chính trị, hạn chế quyền làm chủ, hạn chế thực hiện dân chủ trực tiếp của người dân, tạo cơ hội, kẽ hở cho tầng lớp đặc quyền đặc
lợi tồn tại, lộng hành, trục lợi bất chính, làm gia tăng các nhóm lợi ích có
hại cho xã hội.
Bên cạnh đó, xây dựng cơ chế hoạch định chính sách, để các nhà
khoa học, các
chuyên gia, các đối tượng bị ảnh hưởng bởi chính sách tham gia đề xuất ý tưởng, xây dựng các phương án… Cần tạo cơ hội, điều kiện, cơ chế cho đối
thoại và phản biện xã hội một cách thực chất, coi đó là những
kênh quan trọng để hoàn thiện chính sách. Cũng cần tách bạch giữa hoạch định
chính sách và thực thi chính sách, nhằm giảm thiểu khả năng trục lợi từ chính sách của cá nhân/cơ
quan hoạch định chính sách. Nói cách khác, khi hoạch định chính sách, các cơ
quan có trách nhiệm phải chuyên tâm cho lợi ích của số đông, biết “nghe dân”,
“trọng dân”, “vì dân”.
Hai là, lành mạnh hóa bộ máy
công quyền. Như đã phân tích, tập trung quyền lực là điều kiện thuận lợi biến
quyền lực nhà nước – quyền lực do nhân dân ủy quyền/giao quyền thành công cụ, phương tiện phục vụ
mục đích cá nhân, phục vụ lợi ích nhóm. Đó là thứ "ung
nhọt", là "kẻ thù bên trong" nguy hiểm, là thứ vi trùng độc hại len lỏi vào bộ máy nhà nước, từng ngày, từng giờ giết chết
năng lực quản lý của bộ máy, biến quyền lực nhân dân giao phó thành vũ khí
chống nhân dân. Do vậy, chống tập quyền, lành mạnh hóa bộ máy công quyền là đặc
biệt cần thiết. Một khi quyền lực nhà nước được phân công hợp lý, khoa học, các thành phần của bộ máy
quyền lực buộc phải hoạt động trong mối quan hệ ràng buộc, thương thảo, lắng
nghe và hợp tác công bằng. Đó cũng là con đường khiến cho bộ máy quyền lực vừa
thông minh, khoa học hơn trong quản trị xã hội, vừa có sức đề kháng trước áp
lực của các nhóm lợi ích tìm cách tác động tới chính sách để trục lợi.
Có nhiều cách thiết kế mô hình giám sát và
cân bằng quyền lực khác nhau, song tính độc lập giữa các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được coi là nguyên tắc bất biến. Cần lưu
ý rằng, không
có một hệ thống hiến định nào hoàn hảo hay đạt mọi mục đích đặt ra, song điều quan trọng là hệ thống ấy phải coi
phân quyền như một mục tiêu đầu tiên, quyết định, xuyên suốt, tối thượng; dựa
trên đó, cân nhắc các vấn đề cụ thể phục vụ cho mục tiêu chính yếu. Trên cơ sở
đó, những nhược điểm, yếu kém của bộ máy công quyền sẽ được khắc phục, giảm
thiểu.
Ba là, thiết lập và thực hiện
nghiêm minh chế
độ bãi miễn đối với lãnh
đạo mất tín nhiệm. Bộ máy nhà nước chỉ có được sự tin tưởng của nhân dân khi
đội ngũ cán bộ, đặc biệt là những cán bộ lãnh đạo cấp cao tận tâm, tận lực với
công việc, sử dụng đúng đắn quyền lực mà nhân dân giao phó để làm lợi cho nhân
dân. Tuy nhiên, nếu quyền lực không được kiểm soát, cán bộ lãnh đạo, quản lý dễ
mắc những bệnh như quan liêu, xa rời quần chúng, hách dịch, lạm quyền, ức hiếp
nhân dân, câu kết bè cánh vơ vét quyền lợi, tài sản…, khiến niềm tin của nhân
dân vào bộ máy nhà nước bị lung lay, xói mòn, gây nên tâm trạng bất mãn, thậm
chí chống đối, ảnh hưởng đến ổn định xã hội. Vì thế, trên tinh thần cán bộ chức vụ càng cao, trách
nhiệm càng nặng nề, chịu sự kiểm tra, giám sát càng nghiêm ngặt của nhân dân, những cán bộ mất tín nhiệm phải lập tức bị bãi miễn, bị xử lý nghiêm minh, mang tính răn đe,
nhằm làm trong
sạch bộ máy chính quyền. Muốn
vậy, cần tăng cường sức mạnh, quyền hạn của các cơ quan có chức năng
kiểm tra, giám sát; đồng thời, xây dựng cơ
chế để nhân dân có thể trực tiếp tham gia vào quá trình bãi miễn những quan chức thoái hóa, biến chất, phạm tội.
Chỉ dưới áp lực đó, người lãnh đạo, bộ máy lãnh đạo mới thực sự toàn tâm, toàn
ý, toàn lực cống hiến, phục vụ nhân dân, phục vụ lợi ích của đa số.
Bốn là, đảm bảo tính thượng
tôn của pháp luật. Một nhà nước lý tưởng là nhà nước có những đạo luật công
bằng được thiết lập trên cơ sở trí tuệ và lợi ích quốc gia. Một xã hội văn minh và tiến bộ là một xã hội
trong đó mỗi người dân đều lấy sự tôn trọng đối với luật pháp làm thước
đo đạo đức, làm cơ sở
quan hệ giữa người với người, cơ sở quan hệ xã hội, coi đó là động lực phát triển xã hội. Tuy nhiên, tính thượng tôn của pháp luật
được đảm bảo phải trên cơ sở tự nguyện, chứ không phải dưới sự cưỡng bách. Chủ thể xã hội – công dân chỉ có thể tự nguyện
tôn trọng pháp luật nếu có hai điều kiện: 1-Tính hoàn thiện, đúng đắn, nhân văn
của hệ thống pháp luật; 2-Bảo đảm của Nhà nước về sự nghiêm minh trong thực
hành luật pháp. Đó là một hệ thống pháp luật đáp ứng được niềm tin
của xã hội bằng sự công bằng,
chính đáng, công lý trong từng nội dung pháp luật và thực hiện luật. Như vậy,
thượng tôn pháp luật không đơn thuần là tôn trọng, đề cao pháp luật, mà còn là yêu
cầu về một
hệ thống pháp luật hoàn hảo với
quyền lực của pháp
luật trở thành quyền lực tối thượng, bất phân thân sơ, bất phân địa vị, mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật.
Một cách tổng quát, đảm bảo lợi ích chính đáng cho số đông, loại trừ những nhóm
lợi ích bất minh là nghĩa vụ và bản chất của một nhà nước thân dân, gần dân, gắn
bó với dân, yêu dân, trọng dân. Tinh thần ấy, thiết nghĩ, phải được thấu triệt
và biến thành hành động cụ thể trong nhận thức, trong từng bước đi, trong từng
bước phát triển và trong suốt quá trình phát triển ở Việt Nam hiện nay, nhất là
trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền. Chỉ có như vậy, Việt
Nam mới tránh được nguy cơ tụt hậu, không đánh mất cơ hội phát triển, mới có sự
đồng thuận xã hội để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc và quan trọng nhất, để tồn
tại và vươn lên ngang hàng với các quốc gia tiến bộ, văn minh.
[1] Allan
J. Cigler and Burdett A. Loomis: Interest Group Politics,
Congressional Quarterly Press, 1995, p. 89.
[2] А. Бентли: Процесс
управления, Изд. “Автор”, Москва, 1996, c. 144 (Tiếng Việt: A.Bentlin, Quá
trình quản lý, Nxb Aftor, M, 1996, tr. 144).
[3] http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn
[4] http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn
[5] Frank
Scarpatti: Social Problems, Dreyden Press USA, 1977, p. 632.
[6] Một dòng họ/gia đình/gia
tộc được liệt vào hệ thống gia đình trị (political family) khi có hai thành
viên trở lên (tính đến huyết thống đời thứ ba) chiếm giữ vị trí trong quốc hội
hoặc bộ máy chính quyền bang.
[7] Monopoly
of political power, GMA News, 6-11-2012.
[8] Monopoly of political
power, Ibid.
[9] Rawls, J. A: Theory
of justice, N. Y, 1971, p. 60.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia,
2011, tr 52.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!