Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung Quốc và Việt Nam
là
hai quốc gia láng giềng, có cùng thể chế chính trị, cũng như xuất phát điểm, cùng một mục tiêu đi lên CNXH, đang tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và được đánh giá là những nước chiếm vị trí đặc biệt
trong nhóm nước có mức độ tăng trưởng nhanh, bền vững, liên tục suốt thời kỳ cải cách,
chuyển đổi với một nền chính trị -
xã hội ổn định. Thành công ấy không
phải ở tốc độ, mà ở đường hướng đúng, mức độ và phạm vi cải cách vừa tầm, trong đó đặt trọng tâm cải cách vào kinh tế,
với việc xây dựng nền “kinh tế thị trường XHCN” ở Trung Quốc và nền “kinh tế
thị.trường định hướng XHCN” ở Việt Nam. Do vậy, việc Trung Quốc và Việt Nam học
hỏi kinh nghiệm, nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát triển kinh tế của mỗi nước là
rất quan trọng, cần thiết.
1. Trung Quốc xây
dựng “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”
Cuộc cải cách thể chế kinh tế, xây dựng nền kinh tế
thị trường XHCN của
Trung Quốc trải qua ba giai đoạn:
Từ
năm 1978 đến năm
1984: Đây là bước đi ban đầu của cải
cách kinh tế, với trọng
tâm đặt vào nông nghiệp, nông thôn.
Hội nghị Trung ương 3 của Đảng Cộng
sản Trung Quốc (khóa XI - 1978) đưa ra quyết sách chiến lược, chuyển nền kinh
tế trong tình trạng bị kìm hãm do mặt trái của cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang thể chế “kinh tế hàng hoá có kế hoạch XHCN”. Đại hội XII (1982) khẳng định
xây dựng CNXH mang đặc sắc Trung Quốc và nêu nguyên tắc: "Kinh tế kế hoạch
là chính, điều tiết thị trường là phụ". Nói một cách tổng quát, đây là
thời kỳ thể
hiện sự quay lại tôn trọng quy luật giá trị, mở rộng tác dụng của cơ chế thị
trường. Các thành tích đạt được
trong nông
nghiệp đã tạo ra sức thuyết phục để đông đảo mọi tầng lớp nhân dân
tiếp nhận cuộc cải cách theo hướng thị trường.
Từ
năm 1984 đến năm
1991: Trung Quốc triển khai cải cách kinh tế với trọng điểm ở thành phố, cải cách xí nghiệp quốc doanh là khâu trung
tâm.
Hội nghị Trung ương 3 (khóa XII -
1984) quyết định cải cách thể chế kinh tế, nêu rõ vấn đề xây dựng kinh tế hàng
hóa trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thể chế “kinh tế hàng
hoá có kế hoạch XHCN” còn có chỗ chưa rõ ràng về lý luận, khó thực hiện đầy đủ
trong thực tiễn, nhất là việc giải quyết mối quan hệ giữa “hàng hoá” và “kế
hoạch”. Vì thế, để giải quyết mâu thuẫn này, Đại hội XIII (1987) đã xác định rõ
mô hình quản lý kinh tế: "Nhà nước điều hành thị trường, thị trường hướng
dẫn doanh nghiệp", đưa cuộc cải cách kinh tế tiến thêm một bước quan
trọng. Nhờ cải cách quan hệ sản xuất, sức sản xuất của Trung Quốc trong những
năm 80 (XX) có bước phát triển vượt bậc so với trước đó, làm nổi bật tác dụng của
thị trường. Có thể nói, đây là giai đoạn quá độ từ thuyết kinh tế hàng
hoá XHCN sang thuyết kinh tế thị trường XHCN.
Từ
năm 1992 đến nay: Đây là giai đoạn xây dựng, phát triển thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Các cải cách kinh tế những năm 80
(XX) vẫn chưa hoàn toàn đưa Trung Quốc thoát khỏi khó khăn (những tiêu cực về
“văn minh tinh thần”, sự kiện Thiên An Môn…). Nhằm ổn định tình hình, Đảng và
Nhà nước Trung Quốc đã đưa ra những điều chỉnh nhất định đối với nền kinh tế.
Tinh thần cốt yếu trong bài nói chuyện nhân chuyến đi xuống phía Nam của Đặng
Tiểu Bình: “Bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng sức sản xuất, phát triển sức sản
xuất, tiêu diệt bóc lột, xoá bỏ phân hoá hai cực, tiến tới cùng giàu có” đã trở
thành tư tưởng chủ đạo của Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (1992). Với nội
dung cốt lõi: “Kinh tế kế hoạch không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản cũng có kế hoạch;
kinh tế thị trường không có nghĩa là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội cũng có thị trường. Kế hoạch và
thị trường đều là biện pháp kinh tế. Kế hoạch nhiều hơn một ít hay thị trường
nhiều hơn một ít không phải là sự khác nhau về bản chất giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản”, Đại
hội XIV chính thức xác định việc xây
dựng thể chế “kinh tế thị trường XHCN” là mục tiêu của cuộc cải cách thể chế
kinh tế và đề ra con đường thực hiện. Bằng những điều chỉnh chính sách kinh tế
trong thập kỷ 90 (XX), nền kinh tế Trung Quốc có bước phát triển nhanh (GDP năm
1996 tăng gấp 4 lần năm 1980), nhưng cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc
vẫn còn gặp khó khăn lớn ở khâu trọng tâm: Cải cách doanh nghiệp Nhà nước (xí
nghiệp quốc hữu), liên quan tới chế độ sở hữu. Trong bối cảnh đó, Đại hội XV
Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997) tiếp tục là một bước bứt phá lý luận về việc
xây dựng thể chế kinh tế thị trường, trong đó đặc biệt đề cập đến những vấn đề
liên quan đến chế độ sở hữu, vị trí, vai trò của kinh tế công hữu và “phi công
hữu”. Từ Đại hội XVI (2002) đến Đại hội XVII (2007), vấn đề hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường XHCN được coi là trung tâm. Với lý luận “xây dựng xã hội toàn diện khá giả,
xã hội hài hòa XHCN”, Đại hội XVII chuyển hướng nền kinh tế từ tăng
trưởng “thô” theo chiều rộng, sang tăng trưởng “tinh” theo chiều sâu với quan
điểm “phát triển một cách khoa học”. Đây cũng là thời kỳ chuyển từ bước hình
thành khung, sang phát triển để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Như vậy, nói một cách khái quát, tư
tưởng chung về việc xây dựng kinh tế thị trường
XHCN ở Trung Quốc xuất hiện dựa trên những thay đổi đột phá về mặt lý luận:
Thứ nhất, chuyển từ quan niệm kinh tế
thị trường có thuộc tính chế độ, thuộc tính giai cấp, đến thừa nhận kinh tế thị
trường vừa phục vụ CNTB, vừa có thể phục vụ CNXH; thứ hai, từ quan niệm chế độ công hữu XHCN phải thuần nhất, không
thể kết hợp với kinh tế thị trường, đến thừa nhận chế độ công hữu là chính, coi
đó là chế độ kinh tế cơ bản, cùng với các hình thức sở hữu khác cùng phát
triển; thứ ba, từ quan niệm phân phối
theo lao động là phương thức phân phối duy nhất của CNXH, đến thừa nhận phân
phối theo lao động là chính, các hình thức phân phối khác cùng song song tồn
tại; thứ tư, thị trường được xem là bản chất của cuộc cải cách thể chế kinh
tế thị trường XHCN, từ đó vấn đề tăng nhanh tốc độ phát triển thị trường sản
xuất và thị trường tiêu thụ trở thành nhiệm vụ trọng điểm.
Việc kết hợp CNXH và kinh tế thị
trường có thể coi là một sáng kiến, một bước ngoặt lịch sử mà những người cộng
sản Trung Quốc tạo ra đối với sự phát triển của chủ nghĩa Mác, thể hiện việc
kiên trì sáng tạo lý luận, tiến cùng thời đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Thể
chế kinh tế thị trường XHCN có khả năng làm cho thị trường có được tác dụng
tích cực đối với sự phân bổ nguồn tài nguyên dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà
nước, khiến cho hoạt động kinh tế tuân theo yêu cầu của quy luật giá trị, thích
ứng với những thay đổi của quan hệ cung cầu; đồng thời, đòi hỏi cạnh tranh công
bằng, bất luận kinh tế công hữu hay kinh tế phi công hữu đều không được hưởng
bất cứ một đặc quyền nào (trước tiên là về mặt lý thuyết). Đây được coi là tiền
đề mang tính động lực, thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách hiệu quả nhất,
bền vững nhất.
2. Chủ trương xây dựng “kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam được định hình, xây dựng và phát triển từng bước.
Từ
năm 1979 đến năm 1986: Đây là giai đoạn khởi đầu các cải
cách kinh tế, bắt đầu từ Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV- 1979) của Đảng Cộng
sản Việt Nam với việc cải tiến các chính sách lưu thông, phân phố và tiếp nối
bằng Đại hội V (1982) - quyết tâm khắc phục những yếu kém trong kinh
tế, trong quản lý kinh tế, đưa ra một số chính sách kinh tế mang tính bản lề,
sắp xếp lại và cải tạo kinh tế, tập trung phát triển nông nghiệp.
Từ
năm 1986 đến năm 2001: Thừa nhận cơ chế thị
trường của nền kinh tế và xoá bỏ quan niệm kinh tế thị trường phản ánh
bản chất của chế độ xã hội.
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam (1986) đặt một dấu mốc mới, thừa nhận sự cần thiết xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam. Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI - 1989) tiến thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế
hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, coi chính sách kinh tế nhiều thành
phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có
tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH.
Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN - thực hiện cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ
khác. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) nhận định: Đổi mới
kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam (1996) đặt vấn đề “xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa"[1]. Tuy Đại
hội VIII mới chỉ nói đến “nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường”, chứ chưa dùng khái niệm “kinh tế thị
trường”, nhưng cống hiến quan trọng của Đại hội VIII là ở chỗ thừa nhận: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại,
tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây
dựng”[2].
Từ
năm 2001 đến nay: Coi kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong suốt thời kỳ quá độ, gắn kinh tế thị trường của Việt Nam với nền
kinh tế thị trường toàn cầu.
Đến Đại hội IX (2001), Đảng Cộng sản
Việt Nam chính thức khẳng định chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"[3]. Đại hội
lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) nhấn mạnh: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"[4],
đồng thời, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tư tưởng này thể hiện
thái độ rõ ràng, dứt khoát của Đảng thừa nhận CNXH có thể dung hợp với kinh tế
thị trường, có thể sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện để xây dựng CNXH.
Đây là bước đổi mới quan trọng trong tư duy lý luận, mở ra một trang mới về đổi
mới kinh tế ở Việt Nam.
Tựu chung
lại, từ năm 1979 đến nay, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
từng bước được xây dựng trên những chuyển biến chính yếu trong tư duy lý luận
của Đảng Cộng sản Việt Nam: Thứ nhất, từ quan niệm
kinh tế thị trường gắn liền và phản ánh bản chất của CNTB, đến chỗ thừa nhận kinh tế thị trường không phải là cái riêng
có của CNTB, cũng không đối lập với CNXH; thứ hai, từ quan niệm CNXH chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế
độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất, đến thừa nhận nền kinh tế của ta
hiện nay và sau này có ba chế độ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập thể, tư nhân,
trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế
khác nhau; thứ ba, từ chỉ thừa nhận
một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân phối theo lao động, đã đi đến
quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp
các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã
hội; thứ tư, về thị trường, phát
triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản
theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
Như vậy, đưa ra quan niệm phát triển
“kinh tế thị trường định hướng XHCN” là một đột phá lý luận rất cơ bản
của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu, tinh
lọc kinh nghiệm của thế giới.
3.
Kinh nghiệm của Trung Quốc đối với việc xây dựng “kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” của Việt Nam
Công cuộc xây dựng kinh tế thị trường XHCN (1978-2008) của Trung Quốc đã đạt được những kỳ tích, thể hiện ở một nền kinh tế phát
triển với tốc độ cao, một tiềm năng kinh tế
hùng mạnh và mức sống được cải thiện nhanh chóng chưa từng có trong lịch sử. Chỉ trong vòng hơn 30 năm, bộ mặt Trung Quốc đã thay đổi hẳn
nhờ giành được những thành công
rực rỡ
mà một số nước trên thế giới phải trải qua hàng trăm năm mới có được. Sự phát triển kinh tế ở đất nước đông dân
nhất hành tinh này luôn là một điều bí ẩn đối với không
ít quốc gia trên thế giới. Vì sao lại như vậy? Việt Nam có thể học tập gì từ "cuộc cách mạng
thứ hai" vĩ đại này của người Trung Quốc?
Mô hình cải cách kinh tế của Việt Nam phản ánh
nhiều nét khác biệt so với các hình mẫu chuyển
đổi từng được áp
dụng ở một số nền kinh tế khác nhau, nhưng
lại có nhiều điểm
tương đồng với Trung Quốc. Chính vì vậy, những kinh nghiệm
chuyển đổi, xây dựng kinh tế thị trường XHCN của Trung Quốc hoàn toàn có thể áp
dụng cho Việt Nam một cách chọn lọc. Có thể khái quát thành những bài học kinh
nghiệm sau đây:
Tiến
hành cải cách, chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường định hướng XHCN
phải phù hợp với thực tiễn của đất nước, phù hợp bản sắc dân tộc, có quan điểm khoa
học và phát triển
Trung Quốc tiến hành
xây dựng CNXH (trong đó có nền kinh tế thị trường XHCN) mang đặc sắc trung Quốc – một sắc thái riêng biệt, “kiên trì lý luận khoa học, lấy
thực tiễn làm thước đo”. Quan điểm khoa học
và phát triển về xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN là những tổng kết thực tiễn Trung Quốc, tham
khảo, tiếp
thu kinh nghiệm phát triển của nước
ngoài
có chọn lọc và biết sáng tạo, áp dụng tuỳ thuộc điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tránh được tình trạng dập khuân, máy móc, thích ứng với nhu cầu phát triển mới, đảm bảo được tính kế
thừa, song vẫn tiến cùng thời đại, tổng hợp các giá trị phổ quát của thời đại.
Lý luận đó được kiểm nghiệm qua thực tiễn, sàng lọc, được tiếp nhận, cải biến phù hợp với sắc thái
Trung Hoa và trở thành giá trị trên nền tảng dân tộc và thời đại; nguyên lý và sáng tạo. Đó
là hệ thống lý luận mở, không ngừng phát triển, hoà quyện với bề dầy phát triển của hàng ngàn năm lịch sử Trung Quốc, ngưng kết, đóng góp vào sắc thái
văn hoá Trung Quốc vốn có, trở thành cội nguồn thành công.
Sự hình thành khái niệm
“kinh tế thị trường định hướng XHCN” của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự đổi mới
nhận thức về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, cũng là sự thay đổi căn bản quan
niệm về CNXH nói chung, dựa trên nhận thức: Chủ nghĩa Mác - Lênin là những
nguyên lý phổ biến có tính chất phương pháp luận; những nguyên lý phổ biến đó
phải được thể hiện trong những hình thức đặc thù, phù hợp với từng quốc gia,
dân tộc, trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Từ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đưa ra lý luận xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trên nền tảng
thực tế của Việt Nam, vừa khái quát lý luận từ thực tiễn
cải cách kinh tế, vừa áp dụng những lý luận đã có vào cuộc sống, xoá bỏ các yếu
tố của mô hình cũ kinh tế cũ và thay thế bằng những yếu tố mới thích hợp hơn
với điều kiện cụ thể của đất nước, không du nhập từ
bên ngoài một mô hình kinh tế đã có sẵn. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát
triển kinh tế gắn với chấn hưng dân tộc; phát triển kinh tế đi tới hiện
đại hóa đất nước – công cuộc hiện đại hoá được tiến hành trên cơ sở tôn trọng
lợi ích của đông đảo nhân dân, chú trọng điều hòa các mâu thuẫn và xung đột,
giảm ở mức tối đa sự trả giá xã hội, sự bất công bằng, bất bình đẳng xã hội,
thể hiện đầy đủ giá trị của CNXH.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trên nền
tảng của sự ổn định chính trị – xã hội, giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và cải cách chính trị
Trung Quốc xây dựng nền kinh tế thị
trường XHCN không sử dụng hình mẫu "gấp gáp", hay phương án cải cách mang tính "bùng nổ”, hoặc "liệu pháp sốc" về mặt chính trị
- xã hội như Liên Xô và một số nước
Đông Âu, mà kiên trì phương án "dò đá qua
sông", với phương châm “trước dễ
sau khó, tiến dần từng bước, giảm bớt rủi ro”. Đường lối cơ bản của
Đảng Cộng sản Trung Quốc là lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, các công việc
khác đều phải phục tùng và phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm. Nói cách khác, Trung Quốc đã hết sức chú trọng thiết lập mối quan hệ "thứ bậc" giữa
cải cách kinh tế và cải cách chính trị, coi ổn định là tiền đề cho cải cách
kinh tế thành công. Trung Quốc đã nhìn thấy mối liên hệ bên trong,
mang tính huyết mạch, không thể tách rời nhau giữa cải cách kinh tế và ổn định
chính trị, từ đó giải quyết tốt mối quan hệ giữa cải cách kinh tế - ổn định
chính trị - xã hội, đẩy mạnh cải cách và phát triển trong ổn định, gìn
giữ ổn định xã hội, yên ổn lâu dài của đất nước trong cải cách, phát triển kinh
tế. Nhờ đó, kinh tế Trung
Quốc đã có những bước tiến hết sức vững vàng, tránh được những va chạm hoặc đột biến, tuyệt đại đa số nhân dân
được hưởng lợi ích của cải cách kinh tế, được hưởng lợi
ích do nền kinh tế thị trường XHCN mang lại.
Thực tế cải tổ, cải cách, đổi mới
của các nước khác nhau trên thế giới đã cho thấy, tình trạng hỗn loạn, khủng
hoảng chính trị – xã hội cản trở mọi sự phát triển, còn ổn định chính trị – xã
hội chính là tín hiệu của sự phát triển. Đó là một thực tế hiển nhiên. Nhận
thức một cách sâu sắc, sáng rõ điều đó, Việt Nam tiến hành chuyển đổi, xây dựng
nền kinh tế của mình lấy sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề, làm điều
kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ở Việt
Nam, nhu cầu chuyển đổi, cải cách kinh tế đã xuất phát từ chính lĩnh vực kinh
tế, chứ không phải là hệ quả những biến động chính trị. Nhờ xác định đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, mà những yêu cầu cấp thiết của nhân dân về sản xuất và
đời sống được giải quyết, đem lại sự tin tưởng, ủng hộ của nhân dân, tự nó trở
thành động lực thúc đẩy công cuộc cải cách kinh tế, xây dựng kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Giữ vững ổn định chính
trị – xã hội để phát triển kinh tế, tạo cơ sở vững chắc cho đổi mới các lĩnh
vực của đời sống xã hội, nhưng cải cách kinh tế đòi hỏi phải có sự mở đường từ
đổi mới chính trị. Chính vì vậy, Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”[5]. Giữ vững ổn định chính trị trong điều kiện áp dụng cơ chế
thị trường, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập đã cho
thấy tác dụng và ý nghĩa của việc giải quyết đúng đắn, hợp lý mối quan hệ giữa
ổn định - đổi mới và phát triển, giữa cải cách kinh tế với đổi mới chính trị,
xây dựng một xã hội đồng thuận.
Xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cần gắn với việc thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội
Trước tiên phải khẳng
định rằng, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội có mối quan
hệ tác động hai chiều. Tăng trưởng kinh tế đem lại những giá trị vật chất to
lớn, tạo điều kiện để thực hiện công bằng xã hội. Kinh tế càng phát triển, càng
có điều kiện thuận lợi hơn để hoạch định và thực thi các chính sách về công
bằng xã hội. Ngược lại, công bằng xã hội có tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế thông qua khả năng có thể tạo ra một xã hội hòa hợp, lành mạnh và ổn
định - một xã hội hài hòa giữa những lợi ích cá nhân và cộng đồng. Công bằng xã
hội, trên thực tế, vừa là điều kiện quan
trọng để tạo ra ổn định xã hội, vừa là một động lực để tăng trưởng kinh tế
Nền kinh tế thị trường ở Trung Quốc
và Việt Nam những năm qua đã có nhiều thành tựu to lớn. Đó là hiện thực không
thể phủ nhận. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ những mặt tiêu cực: Tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực, phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng… Đây chính là mặt trái của cơ
chế thị trường. Nó hạn chế sự phát triển của chính nền kinh tế thị trường, hạn
chế sự tiến bộ của xã hội. Do vậy, khắc phục những mặt trái của cơ chế thị
trường, gắn sự phát triển của nền kinh tế với việc thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội chính là tạo điều kiện, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển bền
vững của nền kinh tế thị trường XHCN và định hướng XHCN.
Ngay trong những ngày đầu tiến hành
xây dựng kinh tế thị trường XHCN, Trung Quốc đã coi sự tăng
trưởng kinh tế là cơ sở của sự phát triển, cơ sở của việc thực hiện công bằng
xã hội. Trung Quốc hết sức chú trọng đến việc thực hiện công bằng xã hội
thông qua chính sách phân phối thu nhập, khắc phục
chủ nghĩa bình quân, đồng thời phòng ngừa thu nhập chênh lệch quá lớn.
Ở Việt Nam, khi nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN có sự tăng trưởng khá, thì cũng là khi mặt tiêu
cực của nó tác động tương đối mạnh đến các mặt của đời sống xã hội. Tăng trưởng
kinh tế nhanh trong điều kiện cơ chế thị trường đã làm cho bất công xã hội có
nguy cơ tăng lên. Trong số các vấn đề xã hội cần quan tâm, thì công bằng xã hội
là một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất. Theo
Báo cáo phát triển con người 2007-2008
của UNDP, ở Việt Nam, 10% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 4,2% thu nhập và chi
tiêu quốc gia; 10% giàu nhất chiếm 28,8% thu nhập và chi tiêu quốc gia; chênh lệch giữa 10% dân số giàu nhất với 10%
dân số nghèo nhất là 6,9 lần. Đáng quan tâm nhất là những người nghèo ở nước ta
hiện nay không chỉ nghèo về kinh tế mà còn nghèo về kiến thức, hạn chế trong
việc bảo đảm các nhu cầu về y tế, văn hoá, giáo dục. Có thể nói, kinh tế càng tăng trưởng thì vấn đề công bằng xã hội càng
được đặt ra một cách bức xúc. Vì thế, Đảng và Nhà nước Việt Nam cố gắng giải
quyết những vấn đề nổi cộm. Rút kinh nghiệm từ những bài học đắt giá trong việc
hoạch định chính sách phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới,
Việt Nam đã chủ trương không chờ tới khi kinh tế phát triển cao rồi mới thực
hiện các chính sách về công bằng xã hội, mà ngay từ khi bắt đầu tiến hành đổi
mới đã phải kết hợp các nhiệm vụ kinh tế với các nhiệm vụ xã hội; giải quyết
tốt mối quan hệ giữa đổi mới chính sách kinh tế với đổi mới chính sách xã hội,
coi đó là một phương thức để thực hiện công bằng xã hội, tạo điều kiện cho nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển.
Xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cần mở rộng hợp tác, hội nhập kinh
tế quốc tế
Trong một thế giới hội
nhập, không có một quốc gia nào có thể phát triển được nếu không tham gia vào
hợp tác và cạnh tranh quốc tế. Bài học cay đắng của những thập niên 60,70 (XX)
trong việc thực hiện “bế quan toả quốc” đã làm cho Trung Quốc nhận thức rằng, CNXH phải tiếp thu mọi
thành quả văn minh của nhân loại, đặc biệt là của các nước phát triển phương
Tây; CNTB là một giai đoạn lịch sử vô cùng quan trọng của tiến trình phát triển
lịch sử của loài người, nền văn minh vật chất và văn minh tinh thần mà nó sáng
tạo ra trong mấy trăm năm vượt qua tất cả những gì mà loài người đã tạo ra
trước đó. Trung Quốc xây dựng CNXH
trên cơ sở kinh tế, văn hoá lạc hậu, càng
phải thực hiện mở cửa, tiếp thu thành quả văn minh của thế giới. Kiến trúc sư của cải cách, mở cửa Trung Quốc
Đặng Tiểu Bình đã nói: “Trung Quốc cần phải mạnh dạn tiếp thu và học tập tất cả những
thành quả văn minh mà xã hội loài người đã sáng tạo nên, tiếp thu và học tập
tất cả các phương thức kinh doanh, những phương pháp quản lý tiên tiến phản ánh
quy luật sản xuất hiện đại hoá của các nước trên thế giới ngày nay, kể cả các
nước TBCN”.
Trung
Quốc coi cải cách kinh tế và mở cửa với thế giới bên ngoài là hai mặt của một chỉnh
thể. Sự kết hợp giữa hai mặt này là một trong những nguyên nhân quan trọng
dẫn đến thành công của xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường XHCN. Vì vậy, phải
coi đây là một quốc sách cơ bản, lâu dài, là con đường tất yếu trong tiến trình
đẩy nhanh quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN, hiện đại hóa
XHCN. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không chỉ một lần
nhấn mạnh: Bản thân việc mở cửa đối ngoại không phải là mục đích, mà chỉ là một
biện pháp. Mục đích căn bản của mở cửa đối ngoại là đẩy nhanh phát triển sức
sản xuất xã hội, đẩy nhanh việc thực hiện chiến lược hiện đại hoá, xây dựng
CNXH mang đặc sắc Trung Quốc một cách tốt hơn. Đây là quan điểm cơ bản, xuyên
suốt quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc. Hiện nay, nền kinh tế Trung Quốc đã
trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thế giới. Thế giới cần Trung
Quốc và Trung Quốc cũng không
thể tách rời thế giới. Cục diện mở cửa với bên ngoài của Trung Quốc là đa phương
hóa, nhiều tầng nấc, lĩnh vực rộng, thực hiện chiến lược "đi ra thế giới"
và "đón thế giới vào".
Hội nhập là một nhu cầu
xuất hiện do tác động của toàn cầu hoá, không phụ thuộc, không phân biệt chế độ
chính trị – xã hội giữa các quốc gia. Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ diễn ra mạnh mẽ, toàn cầu hóa kinh tế và quốc tế hóa đời sống xã
hội trở thành một xu thế lớn của thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức
“toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia”[6], cần
phải kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống
với yếu tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên; từ đó, chủ trương gắn kinh tế thị trường Việt Nam
với nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
và đầy đủ hơn. Đảng chủ trương động
viên mọi nguồn lực bên trong là chính; đồng thời, khai thác tốt những điều kiện
thuận lợi mới trong quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi
trường quốc tế thuận lợi phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã nhanh
chóng mở rộng xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo thêm việc làm
cho người lao động, tăng thu ngân sách nhà nước. Quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đã tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận với những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học, công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, tiếp nhận được
nhiều kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Việt Nam coi vấn đề xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là đường lối chiến
lược để phát triển kinh tế, đa dạng hóa thị trường và đa phương hóa quan hệ
kinh tế đối ngoại; chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; củng cố các
thị trường truyền thống; ra sức khai thác, phát triển thị trường mới, thúc đẩy
kinh tế phát triển, cùng với các nước hợp tác và cùng nhau phát triển lâu dài,
bền vững. Như vậy, trong thế giới ngày nay, để phát
huy nội lực cần phải mở rộng quan hệ quốc tế. Ngược lại, việc mở rộng quan hệ
đối ngoại, hội nhập quốc tế phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, giữ gìn,
phát huy bản sắc truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
* *
*
Phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN là một vấn đề mới mẻ cả trên bình diện lý luận và thực
tiễn. Chủ trương này ra đời cả ở Trung Quốc và Việt Nam nhằm giải quyết những
rào cản phát triển, đáp ứng yêu cầu đi lên của đất nước. Tuy nhiên, đây là sự
nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó chưa có tiền lệ, cần phải
tổng kết, đúc rút kinh nghiệm.
Thực tế cũng cho thấy, thực tiễn và
lý luận về mô hình kinh tế thị trường hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp.
Nó luôn là bài toán đầy thách thức đối với bất cứ quốc gia nào muốn phát triển
nền kinh tế thị trường. Vì vậy, không thể áp dụng máy móc mô hình kinh tế thị
trường của nước này cho nước khác. Mọi sự rập khuôn theo bất cứ mô hình ngoại
lai nào đều đi đến thất bại. Không có bao giờ có sẵn một con đường; không bao
giờ có một công thức có thể áp dụng cho mọi lúc, mọi nơi; không có một cẩm nang
thần kỳ cho tất cả mọi người. Đổi mới, cải cách là sáng tạo, sáng tạo không
ngừng. Trên tinh thần ấy, Việt Nam cần
học hỏi kinh nghiệm của các nước khác (trong đó có Trung Quốc), phát huy hiệu
quả nội lực, phát huy tinh thần dân tộc chân chính ẩn
chứa trong hơn 80 triệu dân Việt Nam, kết hợp thu hút các nguồn ngoại
lực, chủ động nghiên cứu, tiếp tục tìm tòi, đưa ra và thực hiện mô hình kinh tế
thị trường phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình. Đặc biệt,
về phía Nhà nước, cần lưu ý rằng, giữa lý luận và thực tiễn luôn có một khoảng
cách. Để lý luận đi vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn, soi sáng thực tiễn, việc
xóa bỏ khoảng cách đó là yêu cầu “nhất thành bất biến”, có ý nghĩa sống còn và
hết sức khó khăn. Đó cũng là bài toán hóc búa mà mọi Nhà nước, mọi thể chế thân
dân, vì dân luôn hướng tới việc đi tìm lời giải thỏa đáng.
Download
toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC
[1] Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.26.
[2] Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd,
tr. 97.
[3] Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86.
[4] Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.69.
[5] Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr.14.
[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Sđd, tr. 13
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!