Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM


Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia láng giềng, có cùng thể chế chính trị, cũng như xuất phát điểm, cùng một mục tiêu đi lên CNXH, đang tiến hành ci cách, mở cửa, đổi mới và được đánh giá là những nước chiếm vị trí đặc biệt trong nhóm nước có mức độ tăng trưởng nhanh, bền vững, liên tục suốt thời kỳ cải cách, chuyển đổi với một nền chính trị - xã hội ổn định. Thành công ấy không phải ở tốc độ, mà ở đường hướng đúng, mức độ và phạm vi cải cách vừa tầm, trong đó đặt trọng tâm cải cách vào kinh tế, với việc xây dựng nền “kinh tế thị trường XHCN” ở Trung Quốc và nền “kinh tế thị.trường định hướng XHCN” ở Việt Nam. Do vậy, việc Trung Quốc và Việt Nam học hỏi kinh nghiệm, nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát triển kinh tế của mỗi nước là rất quan trọng, cần thiết.

1.  Trung Quốc xây dựng “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”
Cuộc cải cách thể chế kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN của Trung Quốc trải qua ba giai đoạn:
Tnăm 1978 đến năm 1984: Đây là bước đi ban đầu của cải cách kinh tế, với trọng tâm đặt vào nông nghiệp, nông thôn.
Hội nghị Trung ương 3 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (khóa XI - 1978) đưa ra quyết sách chiến lược, chuyển nền kinh tế trong tình trạng bị kìm hãm do mặt trái của cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang thể chế “kinh tế hàng hoá có kế hoạch XHCN”. Đại hội XII (1982) khẳng định xây dựng CNXH mang đặc sắc Trung Quốc và nêu nguyên tắc: "Kinh tế kế hoạch là chính, điều tiết thị trường là phụ". Nói một cách tổng quát, đây là thời kỳ thể hiện sự quay lại tôn trọng quy luật giá trị, mở rộng tác dụng của cơ chế thị trường. Các thành tích đạt được trong nông nghiệp đã tạo ra sức thuyết phục để đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tiếp nhận cuộc cải cách theo hướng thị trường.
Tnăm 1984 đến năm 1991: Trung Quốc triển khai cải cách kinh tế với trọng điểm ở thành phố, cải cách xí nghiệp quốc doanh là khâu trung tâm.
Hội nghị Trung ương 3 (khóa XII - 1984) quyết định cải cách thể chế kinh tế, nêu rõ vấn đề xây dựng kinh tế hàng hóa trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thể chế “kinh tế hàng hoá có kế hoạch XHCN” còn có chỗ chưa rõ ràng về lý luận, khó thực hiện đầy đủ trong thực tiễn, nhất là việc giải quyết mối quan hệ giữa “hàng hoá” và “kế hoạch”. Vì thế, để giải quyết mâu thuẫn này, Đại hội XIII (1987) đã xác định rõ mô hình quản lý kinh tế: "Nhà nước điều hành thị trường, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp", đưa cuộc cải cách kinh tế tiến thêm một bước quan trọng. Nhờ cải cách quan hệ sản xuất, sức sản xuất của Trung Quốc trong những năm 80 (XX) có bước phát triển vượt bậc so với trước đó, làm nổi bật tác dụng của thị trường. Có thể nói, đây là giai đoạn quá độ từ thuyết kinh tế hàng hoá XHCN sang thuyết kinh tế thị trường XHCN.
Từ năm 1992 đến nay: Đây là giai đoạn xây dựng, phát triển th chế kinh tế thị trường XHCN.
Các cải cách kinh tế những năm 80 (XX) vẫn chưa hoàn toàn đưa Trung Quốc thoát khỏi khó khăn (những tiêu cực về “văn minh tinh thần”, sự kiện Thiên An Môn…). Nhằm ổn định tình hình, Đảng và Nhà nước Trung Quốc đã đưa ra những điều chỉnh nhất định đối với nền kinh tế. Tinh thần cốt yếu trong bài nói chuyện nhân chuyến đi xuống phía Nam của Đặng Tiểu Bình: “Bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng sức sản xuất, phát triển sức sản xuất, tiêu diệt bóc lột, xoá bỏ phân hoá hai cực, tiến tới cùng giàu có” đã trở thành tư tưởng chủ đạo của Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (1992). Với nội dung cốt lõi: “Kinh tế kế hoạch không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản cũng có kế hoạch; kinh tế thị trường không có nghĩa là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội cũng có thị trường. Kế hoạch và thị trường đều là biện pháp kinh tế. Kế hoạch nhiều hơn một ít hay thị trường nhiều hơn một ít không phải là sự khác nhau về bản chất giữa chủ nghĩa xã hộichủ nghĩa tư bản”, Đại hội XIV chính thức xác định việc xây dựng thể chế “kinh tế thị trường XHCN” là mục tiêu của cuộc cải cách thể chế kinh tế và đề ra con đường thực hiện. Bằng những điều chỉnh chính sách kinh tế trong thập kỷ 90 (XX), nền kinh tế Trung Quốc có bước phát triển nhanh (GDP năm 1996 tăng gấp 4 lần năm 1980), nhưng cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc vẫn còn gặp khó khăn lớn ở khâu trọng tâm: Cải cách doanh nghiệp Nhà nước (xí nghiệp quốc hữu), liên quan tới chế độ sở hữu. Trong bối cảnh đó, Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997) tiếp tục là một bước bứt phá lý luận về việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường, trong đó đặc biệt đề cập đến những vấn đề liên quan đến chế độ sở hữu, vị trí, vai trò của kinh tế công hữu và “phi công hữu”. Từ  Đại hội XVI (2002) đến Đại hội XVII (2007), vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN được coi là trung tâm. Với lý luận “xây dựng xã hội toàn diện khá giả, xã hội hài hòa XHCN”, Đại hội XVII chuyển hướng nền kinh tế từ tăng trưởng “thô” theo chiều rộng, sang tăng trưởng “tinh” theo chiều sâu với quan điểm “phát triển một cách khoa học”. Đây cũng là thời kỳ chuyển từ bước hình thành khung, sang phát triển để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Như vậy, nói một cách khái quát, tư tưởng chung về việc xây dựng kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc xuất hiện dựa trên những thay đổi đột phá về mặt lý luận: Thứ nhất, chuyển từ quan niệm kinh tế thị trường có thuộc tính chế độ, thuộc tính giai cấp, đến thừa nhận kinh tế thị trường vừa phục vụ CNTB, vừa có thể phục vụ CNXH; thứ hai, từ quan niệm chế độ công hữu XHCN phải thuần nhất, không thể kết hợp với kinh tế thị trường, đến thừa nhận chế độ công hữu là chính, coi đó là chế độ kinh tế cơ bản, cùng với các hình thức sở hữu khác cùng phát triển; thứ ba, từ quan niệm phân phối theo lao động là phương thức phân phối duy nhất của CNXH, đến thừa nhận phân phối theo lao động là chính, các hình thức phân phối khác cùng song song tồn tại; thứ tư, thị trường được xem là bản chất của cuộc cải cách thể chế kinh tế thị trường XHCN, từ đó vấn đề tăng nhanh tốc độ phát triển thị trường sản xuất và thị trường tiêu thụ trở thành nhiệm vụ trọng điểm.
Việc kết hợp CNXH và kinh tế thị trường có thể coi là một sáng kiến, một bước ngoặt lịch sử mà những người cộng sản Trung Quốc tạo ra đối với sự phát triển của chủ nghĩa Mác, thể hiện việc kiên trì sáng tạo lý luận, tiến cùng thời đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Thể chế kinh tế thị trường XHCN có khả năng làm cho thị trường có được tác dụng tích cực đối với sự phân bổ nguồn tài nguyên dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, khiến cho hoạt động kinh tế tuân theo yêu cầu của quy luật giá trị, thích ứng với những thay đổi của quan hệ cung cầu; đồng thời, đòi hỏi cạnh tranh công bằng, bất luận kinh tế công hữu hay kinh tế phi công hữu đều không được hưởng bất cứ một đặc quyền nào (trước tiên là về mặt lý thuyết). Đây được coi là tiền đề mang tính động lực, thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách hiệu quả nhất, bền vững nhất.
2. Chủ trương xây dựng “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được định hình, xây dựng và phát triển từng bước.
Từ năm 1979 đến năm 1986: Đây là giai đoạn khởi đầu các cải cách kinh tế, bắt đầu từ Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV- 1979) của Đảng Cộng sản Việt Nam với việc cải tiến các chính sách lưu thông, phân phố và tiếp nối bằng  Đại hội V (1982) -  quyết tâm khắc phục những yếu kém trong kinh tế, trong quản lý kinh tế, đưa ra một số chính sách kinh tế mang tính bản lề, sắp xếp lại và cải tạo kinh tế, tập trung phát triển nông nghiệp.
Từ năm 1986 đến năm 2001: Thừa nhận cơ chế thị trường của nền kinh tế và xoá bỏ quan niệm kinh tế thị trường phản ánh bản chất của chế độ xã hội.
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đặt một dấu mốc mới, thừa nhận sự cần thiết xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam. Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI - 1989) tiến thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN - thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) nhận định: Đổi mới kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1996) đặt vấn đề “xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa"[1]. Tuy Đại hội VIII mới chỉ nói đến nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, chứ chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”, nhưng cống hiến quan trọng của Đại hội VIII là ở chỗ thừa nhận: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”[2].  
Từ năm 2001 đến nay: Coi kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong suốt thời kỳ quá độ, gắn kinh tế thị trường của Việt Nam với nền kinh tế thị trường toàn cầu.
Đến Đại hội IX (2001), Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức khẳng định chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"[3]. Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) nhấn mạnh: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"[4], đồng thời, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tư tưởng này thể hiện thái độ rõ ràng, dứt khoát của Đảng thừa nhận CNXH có thể dung hợp với kinh tế thị trường, có thể sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện để xây dựng CNXH. Đây là bước đổi mới quan trọng trong tư duy lý luận, mở ra một trang mới về đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
Tựu chung lại, từ năm 1979 đến nay, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam từng bước được xây dựng trên những chuyển biến chính yếu trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam: Thứ nhất, từ quan niệm kinh tế thị trường gắn liền và phản ánh bản chất của CNTB, đến chỗ thừa nhận kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của CNTB, cũng không đối lập với CNXH; thứ hai, từ quan niệm CNXH chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất, đến thừa nhận nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba chế độ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế khác nhau; thứ ba, từ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân phối theo lao động, đã đi đến quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội; thứ tư, về thị trường, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
Như vậy, đưa ra quan niệm phát triển “kinh tế thị trường định hướng XHCN” là một đột phá lý luận rất cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu, tinh lọc kinh nghiệm của thế giới.
3. Kinh nghiệm của Trung Quốc đối với việc xây dựngkinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Việt Nam
Công cuộc xây dựng kinh tế thị trường XHCN (1978-2008) của Trung Quốc đã đạt được những kỳ tích, thể hiện ở một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, một tiềm năng kinh tế hùng mạnh và mức sống được cải thiện nhanh chóng chưa từng có trong lịch sử. Chỉ trong vòng hơn 30 năm, bộ mặt Trung Quốc đã thay đổi hẳn nhờ giành được những thành công rực rỡ mà một số nước trên thế giới phải trải qua hàng trăm năm mới có được. Sự phát triển kinh tế ở đất nước đông dân nhất hành tinh này luôn là một điều bí ẩn đối với không ít quốc gia trên thế giới. Vì sao lại như vậy? Việt Nam có thể học tập gì từ "cuộc cách mạng thứ hai" vĩ đại này của người Trung Quốc?
Mô hình cải cách kinh tế của Việt Nam phản ánh nhiều nét khác biệt so với các hình mẫu chuyển đổi từng được áp dụng ở một số nền kinh tế khác nhau, nhưng lại có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc. Chính vì vậy, những kinh nghiệm chuyển đổi, xây dựng kinh tế thị trường XHCN của Trung Quốc hoàn toàn có thể áp dụng cho Việt Nam một cách chọn lọc. Có thể khái quát thành những bài học kinh nghiệm sau đây:
Tiến hành cải cách, chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường định hướng XHCN phải phù hợp với thực tiễn của đất nước, phù hợp bản sắc dân tộc, có quan điểm khoa học và phát triển
Trung Quốc tiến hành xây dựng CNXH (trong đó có nền kinh tế thị trường XHCN) mang đặc sắc trung Quốc – một sắc thái riêng biệt, “kiên trì lý luận khoa học, lấy thực tiễn làm thước đo”. Quan điểm khoa học và phát triển về xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN là những tổng kết thực tiễn Trung Quốc, tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm phát triển của nước ngoài có chọn lọc và biết sáng tạo, áp dụng tuỳ thuộc điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tránh được tình trạng dập khuân, máy móc, thích ứng với nhu cầu phát triển mới, đảm bảo được tính kế thừa, song vẫn tiến cùng thời đại, tổng hợp các giá trị phổ quát của thời đại. Lý luận đó được kiểm nghiệm qua thực tiễn, sàng lọc, được tiếp nhận, cải biến phù hợp với sắc thái Trung Hoa và trở thành giá trị trên nền tảng dân tộc và thời đại; nguyên lý và sáng tạo. Đó là hệ thống lý luận mở, không ngừng phát triển, hoà quyện với bề dầy phát triển của hàng ngàn năm lịch sử Trung Quốc, ngưng kết, đóng góp vào sắc thái văn hoá Trung Quốc vốn có, trở thành cội nguồn thành công.
Sự hình thành khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự đổi mới nhận thức về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, cũng là sự thay đổi căn bản quan niệm về CNXH nói chung, dựa trên nhận thức: Chủ nghĩa Mác - Lênin là những nguyên lý phổ biến có tính chất phương pháp luận; những nguyên lý phổ biến đó phải được thể hiện trong những hình thức đặc thù, phù hợp với từng quốc gia, dân tộc, trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Từ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra lý luận xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trên nền tảng thực tế của Việt Nam, vừa khái quát lý luận từ thực tiễn cải cách kinh tế, vừa áp dụng những lý luận đã có vào cuộc sống, xoá bỏ các yếu tố của mô hình cũ kinh tế cũ và thay thế bằng những yếu tố mới thích hợp hơn với điều kiện cụ thể của đất nước, không du nhập từ bên ngoài một mô hình kinh tế đã có sẵn. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế gắn với chấn hưng dân tộc; phát triển kinh tế đi tới hiện đại hóa đất nước – công cuộc hiện đại hoá được tiến hành trên cơ sở tôn trọng lợi ích của đông đảo nhân dân, chú trọng điều hòa các mâu thuẫn và xung đột, giảm ở mức tối đa sự trả giá xã hội, sự bất công bằng, bất bình đẳng xã hội, thể hiện đầy đủ giá trị của CNXH.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trên nền tảng của sự ổn định chính trị – xã hội, giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và cải cách chính trị
Trung Quốc xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN không sử dụng hình mẫu "gấp gáp", hay phương án cải cách mang tính "bùng nổ”, hoặc "liệu pháp sốc" về mặt chính trị - xã hội như Liên Xô và một số nước Đông Âu, kiên trì phương án "dò đá qua sông", với phương châm trước d sau khó, tiến dần từng bước, giảm bớt rủi ro”. Đường lối cơ bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc là lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, các công việc khác đều phải phục tùng và phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm. Nói cách khác, Trung Quốc đã hết sức chú trọng thiết lập mối quan hệ "thứ bậc" giữa cải cách kinh tế và cải cách chính trị, coi ổn định là tiền đề cho cải cách kinh tế thành công. Trung Quốc đã nhìn thấy mối liên hệ bên trong, mang tính huyết mạch, không thể tách rời nhau giữa cải cách kinh tế và ổn định chính trị, từ đó giải quyết tốt mối quan hệ giữa cải cách kinh tế -  ổn định  chính trị - xã hội, đẩy mạnh cải cách và phát triển trong ổn định, gìn giữ ổn định xã hội, yên ổn lâu dài của đất nước trong cải cách, phát triển kinh tế. Nhờ đó, kinh tế Trung Quốc đã có những bước tiến hết sức vững vàng, tránh được những va chạm hoặc đột biến, tuyệt đại đa số nhân dân được hưởng lợi ích của cải cách kinh tế, được hưởng lợi ích do nền kinh tế thị trường XHCN mang lại.
Thực tế cải tổ, cải cách, đổi mới của các nước khác nhau trên thế giới đã cho thấy, tình trạng hỗn loạn, khủng hoảng chính trị – xã hội cản trở mọi sự phát triển, còn ổn định chính trị – xã hội chính là tín hiệu của sự phát triển. Đó là một thực tế hiển nhiên. Nhận thức một cách sâu sắc, sáng rõ điều đó, Việt Nam tiến hành chuyển đổi, xây dựng nền kinh tế của mình lấy sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ở Việt Nam, nhu cầu chuyển đổi, cải cách kinh tế đã xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, chứ không phải là hệ quả những biến động chính trị. Nhờ xác định đổi mới kinh tế làm trọng tâm, mà những yêu cầu cấp thiết của nhân dân về sản xuất và đời sống được giải quyết, đem lại sự tin tưởng, ủng hộ của nhân dân, tự nó trở thành động lực thúc đẩy công cuộc cải cách kinh tế, xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Giữ vững ổn định chính trị – xã hội để phát triển kinh tế, tạo cơ sở vững chắc cho đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng cải cách kinh tế đòi hỏi phải có sự mở đường từ đổi mới chính trị. Chính vì vậy, Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”[5]. Giữ vững ổn định chính trị trong điều kiện áp dụng cơ chế thị trường, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập đã cho thấy tác dụng và ý nghĩa của việc giải quyết đúng đắn, hợp lý mối quan hệ giữa ổn định - đổi mới và phát triển, giữa cải cách kinh tế với đổi mới chính trị, xây dựng một xã hội đồng thuận.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cần gắn với việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
Trước tiên phải khẳng định rằng, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội có mối quan hệ tác động hai chiều. Tăng trưởng kinh tế đem lại những giá trị vật chất to lớn, tạo điều kiện để thực hiện công bằng xã hội. Kinh tế càng phát triển, càng có điều kiện thuận lợi hơn để hoạch định và thực thi các chính sách về công bằng xã hội. Ngược lại, công bằng xã hội có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua khả năng có thể tạo ra một xã hội hòa hợp, lành mạnh và ổn định - một xã hội hài hòa giữa những lợi ích cá nhân và cộng đồng. Công bằng xã hội, trên thực tế, vừa là điều kiện quan trọng để tạo ra ổn định xã hội, vừa là một động lực để tăng trưởng kinh tế
Nền kinh tế thị trường ở Trung Quốc và Việt Nam những năm qua đã có nhiều thành tựu to lớn. Đó là hiện thực không thể phủ nhận. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ những mặt tiêu cực: Tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng… Đây chính là mặt trái của cơ chế thị trường. Nó hạn chế sự phát triển của chính nền kinh tế thị trường, hạn chế sự tiến bộ của xã hội. Do vậy, khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường, gắn sự phát triển của nền kinh tế với việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội chính là tạo điều kiện, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường XHCN và định hướng XHCN.
Ngay trong những ngày đầu tiến hành xây dựng kinh tế thị trường XHCN, Trung Quốc đã coi sự tăng trưởng kinh tế là cơ sở của sự phát triển, cơ sở của việc thực hiện công bằng xã hội. Trung Quốc hết sức chú trọng đến việc thực hiện công bằng xã hội thông qua chính sách phân phối thu nhập, khắc phục chủ nghĩa bình quân, đồng thời phòng ngừa thu nhập chênh lệch quá lớn.
Ở Việt Nam, khi nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự tăng trưởng khá, thì cũng là khi mặt tiêu cực của nó tác động tương đối mạnh đến các mặt của đời sống xã hội. Tăng trưởng kinh tế nhanh trong điều kiện cơ chế thị trường đã làm cho bất công xã hội có nguy cơ tăng lên. Trong số các vấn đề xã hội cần quan tâm, thì công bằng xã hội là một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất. Theo Báo cáo phát triển con người 2007-2008 của UNDP, ở Việt Nam, 10% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 4,2% thu nhập và chi tiêu quốc gia; 10% giàu nhất chiếm 28,8% thu nhập và chi tiêu quốc gia;  chênh lệch giữa 10% dân số giàu nhất với 10% dân số nghèo nhất là 6,9 lần. Đáng quan tâm nhất là những người nghèo ở nước ta hiện nay không chỉ nghèo về kinh tế mà còn nghèo về kiến thức, hạn chế trong việc bảo đảm các nhu cầu về y tế, văn hoá, giáo dục. Có thể nói, kinh tế càng tăng trưởng thì vấn đề công bằng xã hội càng được đặt ra một cách bức xúc. Vì thế, Đảng và Nhà nước Việt Nam cố gắng giải quyết những vấn đề nổi cộm. Rút kinh nghiệm từ những bài học đắt giá trong việc hoạch định chính sách phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã chủ trương không chờ tới khi kinh tế phát triển cao rồi mới thực hiện các chính sách về công bằng xã hội, mà ngay từ khi bắt đầu tiến hành đổi mới đã phải kết hợp các nhiệm vụ kinh tế với các nhiệm vụ xã hội; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới chính sách kinh tế với đổi mới chính sách xã hội, coi đó là một phương thức để thực hiện công bằng xã hội, tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cần mở rộng hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế
Trong một thế giới hội nhập, không có một quốc gia nào có thể phát triển được nếu không tham gia vào hợp tác và cạnh tranh quốc tế. Bài học cay đắng của những thập niên 60,70 (XX) trong việc thực hiện “bế quan toả quốc” đã làm cho Trung Quốc nhận thức rằng, CNXH phải tiếp thu mọi thành quả văn minh của nhân loại, đặc biệt là của các nước phát triển phương Tây; CNTB là một giai đoạn lịch sử vô cùng quan trọng của tiến trình phát triển lịch sử của loài người, nền văn minh vật chất và văn minh tinh thần mà nó sáng tạo ra trong mấy trăm năm vượt qua tất cả những gì mà loài người đã tạo ra trước đó. Trung Quốc xây dựng CNXH trên cơ sở kinh tế, văn hoá lạc hậu, càng phải thực hiện mở cửa, tiếp thu thành quả văn minh của thế giới. Kiến trúc sư của cải cách, mở cửa Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã nói: “Trung Quốc cần phải mạnh dạn tiếp thu và học tập tất cả những thành quả văn minh mà xã hội loài người đã sáng tạo nên, tiếp thu và học tập tất cả các phương thức kinh doanh, những phương pháp quản lý tiên tiến phản ánh quy luật sản xuất hiện đại hoá của các nước trên thế giới ngày nay, kể cả các nước TBCN”.
Trung Quốc coi cải cách kinh tế và mở cửa với thế giới bên ngoài là hai mặt của một chỉnh thể. Sự kết hợp giữa hai mặt này là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công của xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường XHCN. Vì vậy, phải coi đây là một quốc sách cơ bản, lâu dài, là con đường tất yếu trong tiến trình đẩy nhanh quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN, hiện đại hóa XHCN. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không chỉ một lần nhấn mạnh: Bản thân việc mở cửa đối ngoại không phải là mục đích, mà chỉ là một biện pháp. Mục đích căn bản của mở cửa đối ngoại là đẩy nhanh phát triển sức sản xuất xã hội, đẩy nhanh việc thực hiện chiến lược hiện đại hoá, xây dựng CNXH mang đặc sắc Trung Quốc một cách tốt hơn. Đây là quan điểm cơ bản, xuyên suốt quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc. Hiện nay, nền kinh tế Trung Quốc đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thế giới. Thế giới cần Trung Quốc Trung Quốc cũng không thể tách rời thế giới. Cục diện mở cửa với bên ngoài của Trung Quốc là đa phương hóa, nhiều tầng nấc, lĩnh vực rộng, thực hiện chiến lược "đi ra thế giới" và "đón thế giới vào".
Hội nhập là một nhu cầu xuất hiện do tác động của toàn cầu hoá, không phụ thuộc, không phân biệt chế độ chính trị – xã hội giữa các quốc gia. Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra mạnh mẽ, toàn cầu hóa kinh tế và quốc tế hóa đời sống xã hội trở thành một xu thế lớn của thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức “toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia”[6], cần phải kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên; từ đó, chủ trương gắn kinh tế thị trường Việt Nam với nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn. Đảng chủ trương động viên mọi nguồn lực bên trong là chính; đồng thời, khai thác tốt những điều kiện thuận lợi mới trong quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng thu ngân sách nhà nước. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Việt Nam coi vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là đường lối chiến lược để phát triển kinh tế, đa dạng hóa thị trường và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại; chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; củng cố các thị trường truyền thống; ra sức khai thác, phát triển thị trường mới, thúc đẩy kinh tế phát triển, cùng với các nước hợp tác và cùng nhau phát triển lâu dài, bền vững. Như vậy, trong thế giới ngày nay, để phát huy nội lực cần phải mở rộng quan hệ quốc tế. Ngược lại, việc mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, giữ gìn, phát huy bản sắc truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
*                         *
*
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một vấn đề mới mẻ cả trên bình diện lý luận và thực tiễn. Chủ trương này ra đời cả ở Trung Quốc và Việt Nam nhằm giải quyết những rào cản phát triển, đáp ứng yêu cầu đi lên của đất nước. Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó chưa có tiền lệ, cần phải tổng kết, đúc rút kinh nghiệm.
Thực tế cũng cho thấy, thực tiễn và lý luận về mô hình kinh tế thị trường hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp. Nó luôn là bài toán đầy thách thức đối với bất cứ quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế thị trường. Vì vậy, không thể áp dụng máy móc mô hình kinh tế thị trường của nước này cho nước khác. Mọi sự rập khuôn theo bất cứ mô hình ngoại lai nào đều đi đến thất bại. Không có bao giờ có sẵn một con đường; không bao giờ có một công thức có thể áp dụng cho mọi lúc, mọi nơi; không có một cẩm nang thần kỳ cho tất cả mọi người. Đổi mới, cải cách là sáng tạo, sáng tạo không ngừng. Trên tinh thần ấy, Việt Nam  cần học hỏi kinh nghiệm của các nước khác (trong đó có Trung Quốc), phát huy hiệu quả nội lực, phát huy tinh thần dân tộc chân chính ẩn chứa trong hơn 80 triệu dân Việt Nam, kết hợp thu hút các nguồn ngoại lực, chủ động nghiên cứu, tiếp tục tìm tòi, đưa ra và thực hiện mô hình kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình. Đặc biệt, về phía Nhà nước, cần lưu ý rằng, giữa lý luận và thực tiễn luôn có một khoảng cách. Để lý luận đi vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn, soi sáng thực tiễn, việc xóa bỏ khoảng cách đó là yêu cầu “nhất thành bất biến”, có ý nghĩa sống còn và hết sức khó khăn. Đó cũng là bài toán hóc búa mà mọi Nhà nước, mọi thể chế thân dân, vì dân luôn hướng tới việc đi tìm lời giải thỏa đáng.

Download toàn văn bài viết tại: Trang Web TRI THỨC



[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.26.
[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr. 97.
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86.
[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.69.
[5] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr.14.
[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd,  tr. 13

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!