Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2013

HỒI GIÁO Ở ĐÔNG NAM Á


Nguyễn Thị Mai Hoa
Đại học Quốc gia Hà Nội
Ở Đông Nam Á, bức tranh về tôn giáo rất đa dạng, nhiều sắc mầu. Trong quá trình phát triển của lịch sử, nơi đây đã hội tụ các hệ tư tưởng cả từ phương Đông, phương Tây và Hồi giáo là một tôn giáo trong cái đa dạng, nhiều vẻ ấy. Xâm nhập và phát triển ở mảnh đất Đông Nam Á có nền văn hoá phong phú, Hồi giáo dần chiếm một địa vị chắc chắn ở nhiều nước. Ngoài tư cách là một yếu tố cấu thành của nền văn hoá khu vực, Hồi giáo còn  là một trong những tôn giáo can thiệp sâu vào đời sống chính trị của nhiều quốc gia, thậm chí có khả năng chi phối, ảnh hưởng đến hoà bình, ổn định ở khu vực.

1.  Sự xâm nhập của đạo Hồi vào Đông Nam Á
Đạo Hồi là một tôn giáo thế giới, nguyên gốc từ chữ Arập là Ixlam (sự phục tùng, sự tuân lệnh). Cũng như mọi tôn giáo thế giới khác, đạo Hồi ra đời gắn liền với những chuyển biến xã hội và có khả năng truyền bá rộng rãi, không chỉ bó hẹp trong một cộng đồng dân tộc hay một bộ tộc. 
Hiện nay, đạo Hồi là một tôn giáo có số lượng tín đồ (1.162.000.000 tín đồ) và phạm vi ảnh hưởng rộng lớn thứ hai sau Ki-tô giáo, có mặt ở hơn 50 nước của tất cả các châu lục, trải dài thành một vòng cung lớn từ Bắc Phi tới Indonesia và Philipines, với trung tâm tinh thần ở Saudi- Arabia (Medina, La meca). Về dân số, trọng điểm của thế giới Hồi giáo ngả về phương Đông và được phân bố như sau: Châu Á có 812 triệu người Hồi giáo, châu Phi 315 triệu, châu Âu 31 triệu, Nam Mỹ 2 triệu; trong đó, đáng chú ý là nước Pháp có gần 5 triệu tín đồ Hồi giáo, Mỹ có khoảng 4 triệu; Indonesia là nước đông tín đồ Hồi giáo nhất thế giới: hơn 174 triệu người, Pakistan xếp thứ hai với hơn 142 triệu, Bangladesh xếp thứ ba với 11 triệu. Trong các nước của thế giới Hồi giáo, một số nước coi Hồi giáo là quốc đạo và dùng giáo luật để cai trị đất nước.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu về Hồi giáo ở Đông Nam Á vẫn chưa đưa ra một kết luận thống nhất về quá trình du nhập của tôn giáo này vào khu vực. Vấn đề gây nhiều tranh luận là thời điểm, hoàn cảnh, người truyền bá Hồi giáo vào Đông Nam Á (người Arập, Ấn Độ hay Trung Quốc...?). Ý kiến được đa số ủng hộ là Hồi giáo du nhập vào đây thông qua các thương gia Arập và Ấn Độ, vào khoảng thế kỷ VII-XIII.
Tuy là một tôn giáo lớn trên thế giới, nhưng Hồi giáo đến Đông Nam Á tương đối muộn, vào lúc mà "lưỡi gươm mở cõi của Hồi giáo" không còn thoả sức hoành hành để mở rộng lãnh thổ và áp đặt tôn giáo cho các cư dân các vùng đất bị người Arập Hồi giáo chiếm đóng. Hồi giáo xuất hiện ở Đông Nam Á trước Đạo Thiên chúa, nhưng thực sự có ảnh hưởng sau đó vài thế kỷ. Thực vậy, một trong những mục đích biện minh cho sự bành trướng của châu Âu vào vùng này là để ngăn chặn đạo Hồi trên cấp độ toàn cầu. Từ lâu, trước khi người Âu đến vùng Đông Nam Á, Đạo Hồi đã lan rộng một cách vững chắc dọc theo các con đường buôn bán đường thuỷ nối Tây Ấn Độ và Đông Á. Hồi giáo đến Malaisia, Indonesia sau đó qua con đường Malaisia lan ra các đảo miền Nam Philippines và lãnh thổ đầu tiên mà Hồi giáo xâm nhập là vùng Bắc Sumatơ; người Ache là cư dân đầu tiên theo Đạo Hồi. Khi Malăcca trở nên cường thịnh, nó trở thành trung tâm truyền bá Đạo Hồi. Cho đến thế kỷ thứ  XV, bản thân vùng Đông Nam Á hải đảo được gắn với nhau bằng một chuỗi các quốc gia buôn bán theo Đạo Hồi. Tiến trình "Hồi giáo hoá" lúc bấy giờ được hoàn tất thông qua việc cải đạo và chinh phục các đảo,  mở rộng vùng giáp ranh Hồi giáo dọc theo các con đường buôn bán hiện có. Trong quá trình Hồi giáo du nhập, các thành phố ven biển như Malăcca, Aleh, Pasai... đóng vai trò quan trọng, vì chúng là những thành phố và những trung tâm, nơi giao lưu buôn bán lớn ở khu vực; trở thành nơi Hồi giáo xâm nhập trước tiên và nhanh chóng biến thành trung tâm Hồi giáo ở khu vực.
Các thương nhân Ba Tư, Ấn Độ, Trung Quốc, Arập có mặt tại khu vực Đông Nam Á khá sớm (thế kỷ VII- VIII) và cùng tham gia vào quá trình Hồi giáo hoá Đông Nam Á và nhiều khu dân cư buôn bán của họ vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Các khu dân cư này đã từng là những trung tâm hoạt động tôn giáo, truyền bá kiến thức về thế giới đạo Hồi cho cư dân địa phương. Điều này góp phần tạo nên một trong những đặc trưng của Hồi giáo ở khu vực này- đó là  sự pha trộn những yếu tố tín ngưỡng tiền Hồi giáo ở địa phương với những nét văn hoá Ấn Độ, Ba Tư và Hồi giáo chính thống.
Mặc dù đạo Hồi đến Trung Cận Đông và Ấn Độ bằng những cuộc chiến tranh thần thánh, nhưng nó đến Đông Nam Á bằng con đường hoà bình. Việc Hồi giáo đến Đông Nam Á không có chiến tranh tôn giáo xảy ra, trừ một vài cuộc đụng độ nhỏ ở Philippines là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa. Hồi giáo nhanh chóng xâm nhập Đông Nam Á không phải qua những nhà truyền đạo chuyên nghiệp, mà thông qua thương mại và các thương gia Hồi giáo, nên dễ dàng được tiếp nhận, càng ngày càng có những ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, đặc biệt ở các quốc gia hải đảo. Ở một số tiểu quốc, vua đồng thời là giáo chủ, tiểu quốc biến thành Hồi quốc. Ví dụ ở Philipines, tiểu quốc Hồi giáo đầu tiên là Sulu (thế kỷ X -XV), tiểu quốc thứ hai ở Minđanao (thế kỷ thứ XVI). Các hoạt động kinh tế sau khi Hồi giáo truyền vào tấp nập, khởi sắc như ở đảo Malăcca. Cũng từ đây, văn hoá Arập, Ba Tư có điều kiện thuận lợi cho việc truyền dẫn, ảnh hưởng đến Đông Nam Á. So với Ấn Độ giáo, trên một phương diện nào đó, Hồi giáo có tính dân chủ hơn, vì không bị gò bó bở tính chất giai cấp nặng nề, đáp ứng được khát vọng của một bộ phận nhân dân về sự công bằng, bình đẳng trong cuộc sống, trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, ở mức độ nhất định. Ngoài ra, Hồi giáo ở Đông Nam Á còn có vai trò đoàn kết các dân tộc trong cuộc chiến chống ngoại xâm.
Ở Đông Nam Á lục địa, các cộng đồng Hồi giáo đã được thiết lập ở Myanmar, Thái Lan, Việt Nam và Campuchia. Tuy nhiên, các cộng đồng Hồi giáo ở khu vực này chỉ là những cộng đồng dân cư thiểu số, không phát triển mạnh mẽ như ở các nước Đông Nam Á hải đảo, bởi khi tới đây, Hồi giáo vấp phải một lực cản lớn là Phật giáo và nền văn hoá Phật giáo- Ấn Độ giáo đã được du nhập và phát triển trước đó. Vì vậy, Hồi giáo ở những nước này vẫn có những đặc trưng tôn giáo và văn hoá riêng.
2- Những thuận lợi của Hồi giáo khi đến Đông Nam Á
Thời gian cho Hồi giáo xâm nhập và trở thành tôn giáo thống trị ở một số nước Đông Nam Á không dài, bởi Hồi giáo đến Đông Nam Á với rất nhiều thuận lợi.
Thứ nhất, thời kỳ Hồi giáo hoá Đông Nam Á trùng hợp với thời kỳ khủng hoảng của các vương quốc cổ đại như ở Chămpa lục địa. Vào cuối thế kỷ XV, quốc gia Ấn Độ- Phật giáo Majapahit hùng mạnh trước kia đang bị suy thoái và tan rã. Các tiểu quốc thuộc đế quốc này tách ra khỏi chính quyền trung ương, giành độc lập về kinh tế, chính trị, kéo theo sự sụp đổ của hệ tư tưởng- tôn giáo cũ. Lúc này, hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ giáo đã trở nên lỗi thời, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của chế độ xã hội với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Sự khủng hoảng của hệ tư tưởng Ấn Độ giáo tạo sự trống rỗng trong niềm tin và một lỗ hổng để tôn giáo mới len vào, đó là Hồi giáo- tôn giáo của các thương gia. Nếu như trước đây, Hồi giáo ra đời góp phần thống nhất các bộ lạc trên bán đảo Arập thành một đế quốc Hồi giáo vững mạnh, thì lúc này Hồi giáo trở thành ngọn cờ của các tiểu quốc trên quần đảo Inđônêxia đấu tranh giành độc lập, phát triển kinh tế, chính trị và quân sự. Tấm gương tiêu biểu là Hồi giáo Malăcca- Malăcca trở thành một trung tâm buôn bán sầm uất từ một làng đánh cá nghèo khó sau khi giành độc lập. Sau đó, Malăcca không chỉ là trung tâm buôn bán quốc tế  quan trọng, mà còn là một trung tâm truyền giáo lớn nhất thời bấy giờ. Các tiểu quốc khác coi Malăcca là tấm gương, chỗ dựa về kinh tế và tinh thần của họ. Các tiểu quốc miền duyên hải sau khi đi vào quỹ đạo buôn bán với Malăcca dần bị lệ thuộc về tinh thần và cuối cùng trở thành những quốc gia Hồi giáo. Các tiểu quốc thấy rõ Hồi giáo là một vũ khí chính trị sắc bén, giúp tạo dựng một cộng đồng Hồi giáo dần bành trướng lớn để thực hiện ý đồ thôn tính lãnh thổ và truyền bá văn hoá của mình,
Thứ hai, quá trình Hồi giáo hoá các vương quốc hải đảo phù hợp với quá trình chuyển hướng kinh tế của khu vực. Từ một nền kinh tế tự cung, tự cấp, các tiểu quốc đã trở thành nơi cung cấp hàng hoá quan trọng, nhất là hương liệu cho châu Âu; do vậy, sẵn sàng mở cửa cho các thương gia Hồi giáo ngoại quốc vào buôn bán và truyền giáo. Trong khi đó, nguyên tắc bình đẳng, tính phóng khoáng, đơn giản trong lễ nghi của Hồi giáo vốn phù hợp với tầng lớp thương nhân đã được giới quý tộc Inđônêxia và Malaisia đón nhận dễ dàng. Hơn nữa, khác với khu vực Trung Đông, Hồi giáo đến Đông Nam Á bằng con đường hoà bình, thông qua các cuộc tiếp xúc cá nhân, các cuộc hôn phối của thương nhân Hồi giáo đến định cư với con gái các tầng lớp quý tộc địa phương. Con đường cải giáo hoà bình và tự nhiên đó rất phù hợp với tâm lý của các cư dân địa phương, giúp họ dễ dàng hoà nhập, tiếp thu Hồi giáo.
Thứ ba, chính tính bao dung, mềm dẻo và thích nghi của Hồi giáo đối với các tín ngưỡng truyền thống địa phương đã khiến cho Hồi giáo mau chóng chiếm được ưu thế ở các nước Đông Nam Á. Trong quá trình Hồi giáo hoá, một số tập tục, truyền thống địa phương lại góp phần đắc lực đẩy nhanh quá trình Hồi giáo hoá. Ví dụ như ở Inđônêsia, chế độ vương quyền và lòng trung thành với nhà vua trên quần đảo Malay đã khiến cho khi nhà vua cải đạo theo Hồi giáo, thì nhất loạt dân chúng cũng mau chóng cải đạo theo.
Thứ tư, ở Hồi giáo tồn tại những  yếu tố của chủ nghĩa thần bí đã có sẵn trong truyền thống văn hoá của các cư dân vùng bán đảo Arập - nơi phát sinh của Hồi giáo và chúng hòa trộn trong Hồi giáo một cách tự nhiên; đặc biệt, khi Hồi giáo đến Ấn Độ đã tiếp thu thêm sự thần bí phương Đông. Vì thế, khi vào Đông Nam Á, Hồi giáo mau chóng có vị trí vững chắc ở nơi đây và dễ dàng xâm nhập vào các cư dân từ lâu đã sống trong ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ. Các cư dân Đông Nam Á bản địa dễ dàng tiếp thu Hồi giáo và đây cũng là xứ sở hiếm hoi mà Hồi giáo không phải dùng bạo lực để loại trừ những tôn giáo đã được thiết lập từ trước. Ngược lại, với kinh nghiệm song song tồn tại cùng các tôn giáo khác ở Ấn Độ, Hồi giáo tiếp tục biến đổi, uốn mình theo các phong tục truyền thống của địa phương. Có thể nói, chính những yếu tố thần bí trong Hồi giáo và khả năng kết hợp với các tín ngưỡng địa phương đã đẩy nhanh quá trình cải giáo ở khu vực Đông Nam Á.
Thứ năm, việc sử dụng ngôn ngữ Malai để truyền giáo cũng góp phần làm cho Hồi giáo phát triển nhanh trên quần đảo Malay- Inđônêxia, sau đó là khu vực Đông Nam Á. Người Hồi giáo đã chọn tiếng Malai mà không chọn những ngôn ngữ khác trong khu vực, bởi vì từ thời tiền Hồi giáo, tiếng Malai đã được sử dụng rộng rãi và trở thành ngôn ngữ trung gian để giao tiếp, đặc biệt là trong giao lưu buôn bán. Khi Hồi giáo thâm nhập vào nơi này, tiếng Malai đã đạt trình độ ngôn ngữ văn hoá tinh tế. Tiếng Malai được sử dụng hầu như trên khắp các cộng đồng Hồi giáo cho tới tận Campuchia và Việt Nam.
Thứ sáu, Hồi giáo ra đời tại Arập vào đầu thế kỷ VII, có giáo luật vào loại khắt khe nhất trong số các giáo luật tôn giáo, tuân theo nguyên tắc năm trụ cột[1], nhưng khi vào Đông Nam Á giáo luật đã được thay đổi cho phù hợp với văn hoá bản địa. Vào Đông Nam Á, Hồi giáo không còn cuồng tín,  bởi vì phải qua “máy lọc” đầy tính nhập thế của Ấn Độ- nơi Hồi giáo  nhập cư trước khi du nhập vào Đông Nam Á và chịu ảnh hưởng bởi tính nhân bản của văn hoá bản địa. Mặc dù giáo luật nghiêm khắc, nhưng trên thực tế, Hồi giáo không hoàn toàn cực đoan, nghĩa là bắt các tín đồ của mình từ bỏ hoàn toàn cuộc sống hiện tại, coi cuộc sống hiện tại chỉ là tạm bợ, chỉ đặt niềm tin vào kiếp sau, vào thế giới bên kia, nên dễ dàng được cư dân bản địa chấp nhận.
3-Tình hình Hồi giáo ở Đông Nam Á hiện nay
Hiện nay, Đông Nam Á là một trong những khu vực chính của Hồi giáo với hơn 3/5 dân số là tín đồ Hồi giáo, tức là khoảng gần 200 triệu người. Hồi giáo là quốc giáo ở Brunei, là tôn giáo chính ở Malaisia và Inđônêxia, là tôn giáo của các nhóm thiểu số lớn ở Philippines, Sinhgapore, Thái Lan…., có mặt ở Myanma, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam. Hồi giáo là một lực lượng chính trị - xã hội lớn ở Đông Nam Á. Có thể nói Đông Nam Á là nơi tập trung Đạo Hồi lớn nhất của thế giới, ngoài vành đai Hồi giáo truyền thống trải từ Tây Bắc Châu Phi đến phía Nam. Tuy Hồi giáo ở Đông Nam Á nằm ngoài phạm vi của trung tâm Hồi giáo là Trung Đông, nhưng sự gắn bó về tâm lý, tinh thần rất sâu sắc, mạnh mẽ, không khác biệt nhiều so với Hồi giáo chính thống ở những nơi khác. Đạo Hồi ở các nước Đông Nam Á  khác nhau về nhiều mặt như ngôn ngữ, chủng tộc, đặc biệt là vấn đề dân tộc, bởi bản thân Đông Nam Á là nơi không thuần nhất.
Tình hình cụ thể của Hồi giáo ở một số nước Đông Nam Á như sau:
 Inđônêxia, 90% dân số của đất nước 180 triệu dân này theo Hồi giáo. Inđônêxia không chỉ là một đất nước có dân số theo Hồi giáo lớn nhất khu vực Đông Nam Á mà còn vào hàng lớn nhất trên thế giới. Đạo Hồi của Inđônêxia, ngoài sự đa dạng về khu vực, ngôn ngữ và chủng tộc, cũng bị chia ra thành nhiều trường phái như Hồi giáo Abangan, Hồi giáo Santri. Ngay trong trường phái Santri còn chia ra thành trường phái cải cách, truyền thống, thần bí…
 Cộng đồng Hồi giáo bị phân chia theo cách giáo dục như theo hệ thống giáo dục thế tục hoặc tôn giáo… Người Hồi giáo ở Inđônêxia còn chia thành nhóm người có quyền lực và nhóm đại diện cho quần chúng. Đại bộ phận người theo Đạo Hồi sống ở nông thôn và là nông dân. Tầng lớp theo Đạo Hồi sống ở thành phố chủ yếu là tiểu thương và dân lao động.
 Malaisia, người theo Đạo Hồi chiếm hơn 55% dân số. Tuy không phải toàn bộ những người theo Đạo Hồi là người gốc Malaisia, nhưng đã là người gốc Malaisai phải là người theo Hồi giáo.
Sinhgapore là nước có khoảng 2,5 triệu dân, nhưng là nước đa chủng tộc, đa ngôn ngữ và đa tôn giáo. 77% dân số là người Hoa, người Mã Lai chiếm 15%, người Ấn 6%. Giống như ở các nước Đông Nam Á khác, Hồi giáo ở Sinhgapore không đồng nhất, đại bộ phận người theo đạo Hồi là người Malaisia, số người Hoa theo Hồi giáo là rất nhỏ. Cộng đồng Hồi giáo Malaisia nói chung yếu về kinh tế và xã hội so với người theo Đạo Hồi không phải gốc Malaisia, thậm chí thấp hơn cả về học vấn.
Hồi giáo ở Philippines có lịch sử lâu đời. Hồi giáo bắt đầu tiến vào các đảo ở miền Nam Philippines vào cuối thế kỷ XIV. Vào những năm 80 của thế kỷ này, trên các đảo Tavitavi, Simunul bắt đầu xuất hiện những cộng đồng Hồi giáo đầu tiên. Bắt đầu từ thời thực dân nước ngoài xâm chiếm đất nước, những người Hồi giáo ở miền Nam Philippines đã chống lại sự xâm chiếm thuộc địa của Tây Ban Nha. Tuy nhiên, cuộc xâm lược ồ ạt của Tây Ban Nha đã làm giảm và loại bỏ hầu như hoàn toàn các tiểu quốc Hồi giáo ở đây và đẩy lùi quá trình bành trướng của Hồi giáo ở miền Bắc Philippines. Do vậy, ngày nay, ảnh hưởng của Hồi giáo chủ yếu ở địa điểm ban đầu, khi nó mới đến là Mêndanao và Sulu. Còn khu vực Hồi giáo phía Nam, mãi đến đầu thế kỷ XX  mới bắt đầu hoà nhập chung vào đất nước một cách có hệ thống và về mặt hành chính. Người theo đạo Hồi ở Philippines được gọi là người Moros. Số người Moros có khoảng 4,5 triệu, tức là khoảng 9% dân số. Đại bộ phận họ làm nghề đánh cá, nghề nông. Một số nhỏ làm là công chức nhà nước hoặc giáo viên, quân nhân hoặc ngành tư pháp…
Tình hình Hồi giáo ở Brunei khác hẳn với các nước Đông Nam Á khác. Brunei có khoảng 250.000 người, mà phần lớn theo Đạo Hồi. Đạo Hồi là quốc đạo của Brunei. Cộng đồng Hồi giáo ở đây cũng được hình thành trong quá trình chung của các nước hải đảo Inđônêxia và Malaisia.
Đối với Thái Lan, Hồi giáo là tôn giáo đứng thứ hai sau Phật giáo về số người theo đạo. Hồi giáo ở Thái Lan chiếm khoảng 4% dân số của đất nước 50 triệu dân. Về phương diện dân tộc học, có thể chia các tín đồi Hồi giáo Thái Lan thành nhóm người Mã Lai Hồi giáo và người Hồi giáo không phải Mã Lai. Người Hồi giáo Mã Lai chiếm khoảng 70-80% tổng số các tín đồ Hồi giáo cả nước. Hiện nay, tuy đã trở thành công dân của Thái Lan, các tín đồ Hồi giáo Mã Lai vẫn giữ gìn bản sắc văn hoá Mã Lai và gắn bó chặt chẽ với thế giới Mã Lai về nhiều phương diện, đặc biệt là về ngôn ngữ, văn hoá, kinh tế - xã hội. Những người Hồi giáo phi Mã Lai gồm có các tín đồ Ấn Độ, Pakistan, Iran, Trung Quốc, Inđônêxia.... Điều đáng lưu ý là những người Hồi giáo phi Mã Lai này chính thức được xem là người Thái Hồi giáo, bởi vì họ nói tiếng Thái, hoà nhập với khung cảnh văn hoá Thái. Hồi giáo ở Thái Lan rải rác trên toàn quốc, tuy vậy, cũng có bốn vùng đông nhất cư dân theo đạo Hồi là các tỉnh ở cực Nam của Thái Lan (nơi mà người Mãlai chiếm đa số).
Hồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Myanmar khoảng thế kỷ thứ XIII-XIV và có nguồn gốc từ Benlgan. Benlgan đã theo Hồi giáo vào khoảng đầu thế kỷ thứ XIII và là giới hạn cận Đông của con đường bành trướng theo đường bộ của Hồi giáo. Vào thế kỷ XVI, phần lớn cư dân của Bắc Myanmar đã theo Hồi giáo, trong khi vùng trung tâm vẫn theo Phật giáo. Sau đó, vào thời kỳ thuộc địa của Anh, hàng loạt các cư dân Hồi giáo Ấn Độ di cư tới đây, khiến cộng đồng Hồi giáo nơi này mạnh lên cả về số lượng và biến đổi về nội dung tôn giáo. Hiện nay, ngoài những khu vực đã kể trên, ở một số thành phố lớn thuộc miền Trung và Nam Myanmar, vùng biên giới Thái Lan-Myanmar, Hồi giáo cũng rất phát triển.
Ở Việt Nam, theo thống kê gần đây nhất hiện có khoảng trên, dưới 70.000 tín đồ Hồi giáo, 257 chức sắc và 70 thánh đường. Ở  Việt Nam có ba cộng đồng Hồi giáo chính: Cộng đồng Hồi giáo người Chăm, cộng đồng Hồi giáo người Malaisia, cộng đồng Hồi giáo người Ấn Độ. Những cộng đồng Hồi giáo này tập trung chủ yếu ở miền Trung và Nam Bộ.
Người Malai di cư sang Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, chỉ bằng 8% người Chăm và hiện nay cũng không tăng thêm là mấy. Cộng đồng Hồi giáo này được hình thành từ trước năm 1882, đại bộ phận tín đồ là người lao động nghèo từ Malasia đi theo chủ tư bản người Anh - Pháp đến các vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Châu Đốc, Tây Ninh... sinh sống bằng các nghề khác nhau. Đối với các giáo luật và các lễ nghi liên quan đến đạo Hồi, họ chỉ hoàn toàn lặp lại những điều họ còn nhớ được từ những người anh em ở bán đảo Malăcca, nơi mà họ vẫn có mối liên hệ thường xuyên. Người Malaisia Hồi giáo ở Việt Nam thuộc phái Hồi giáo “Shiites”, nói chung có nắm được những giáo luật của đạo Hồi, đọc được kinh Koran và các lời bình giảng. Người nào thờ cúng một ngẫu tượng lạ sẽ bị trục xuất ra khỏi cộng đồng. Một vài người có đi hành hương ở Meca, hoặc họ góp tiền để một người đi thay.
Cộng đồng Hồi giáo người Ấn Độ chủ yếu tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh. Đây nguyên là nhóm Ấn kiều di nhập khoảng từ năm 1880-1900, gồm các nhà kinh doanh mà chủ yếu là kinh doanh vải sợi.
Vấn đề Hồi giáo đối với dân tộc Chăm là một vấn đề lịch sử- văn hoá lý thú và có ý nghĩa đối với đời sống người Chăm - một bộ phận (khoảng 1%) của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Người Chăm tập trung chủ yếu ở hai vùng: Trung Bộ và Nam Bộ.
Những người Chăm theo Hồi giáo ở Trung Bộ đều là những người “Hồi sớm”, tức là đến sớm mà không sâu, căn bản vẫn là Chăm, lưu giữ, pha trộn nhiều tập tục tín ngưỡng Hin- đu với cấm kị Hồi giáo. Họ không theo đầy đủ, không đúng quy tắc và không liên hệ gì với thế giới Hồi giáo cũng như những người đồng đạo của mình ở Nam Bộ. Đạo Hồi của người Chăm ở đây có vẻ như thuộc phái Shiite, bởi các vị thánh Hasan, Husain và Ali được đặc biệt sùng bái và cầu khẩn. Tuy vậy, Hồi giáo ở đây cũng đã bị biến dạng đi rất nhiều do chịu ảnh hưởng, tác động của tín ngưỡng hồn linh giáo và Hinđu giáo đã có mặt ở đây rất lâu, hiện nay vẫn tồn tại bên cạnh đạo Hồi.
Ở Nam Bộngười Chăm Hồi cư trú xen kẽ, hoà thuận lâu năm với những người theo các tôn giáo khác. Trung tâm của người Chăm Hồi Nam Bộ là Châu Đốc (An giang). Phụ nữ  Chăm Hồi không trùm khăn che mặt như ở nhiều nước Hồi giáo chính thống. Người Chăm ở Nam Bộ là những người Hồi giáo nhiệt thành, tuân theo nhiều nghi lễ, quy tắc Hồi giáo như ăn kiêng, đặc biệt là kiêng thịt lợn, thực hiện tháng nhịn ăn Ramađa, luôn duy trì các buổi lễ trong ngày và các ngày lễ trong tuần. Việc hành hương đến Thánh địa Mecca vẫn được coi trọng và cố gắng thực hiện. Người Chăm có tập quán theo mẫu hệ lâu đời, đạo Hồi đã đem phụ hệ, phụ quyền vào đời sống người Chăm, nhưng dung hoà ít nhiều với phong tục truyền thống Chăm.
Hiện nay, trong ba cộng đồng Hồi giáo ở Việt Nam, cộng đồng Hồi giáo người Chăm có phần ổn định hơn những cộng đồng còn lại. Mặt khác, qua khảo sát và nghiên cứu về mối quan hệ giữa ba cộng đồng Hồi giáo nói trên, có thể ghi nhận khá rõ nét là mỗi cộng đồng Hồi giáo ở đây thể hiện đậm nét sắc thái văn hoá của dân tộc mình; đồng thời, cũng thể hiện tính thống nhất trong quan niệm của những người cùng tôn giáo.
*                *
*
 Trong kho tàng văn hoá đặc sắc của Đông Nam Á, đạo Hồi là một nét riêng, đặc biệt, sau khi xâm nhập và hoà nhập đã thể hiện bản sắc văn hoá Đông Nam Á một cách rõ nét. Chỉ riêng việc Hồi giáo đến Đông Nam Á bằng con đường hoà bình, thông qua thương mại và các thương nhân, không có chiến tranh tôn giáo cũng đã thấy sự hoà nhập dễ dàng của Hồi giáo vào đây do những điều kiện lịch sử  thuận lợi.
 Hồi giáo ở những nước khác nhau của Đông Nam Á có vai trò chính trị, địa vị khác nhau. Ở nhiều nước, Hồi giáo ngày càng gia tăng ảnh hưởng của mình trong đời sống, là quốc đạo và thực sự đóng vai trò hệ tư tưởng điều hành đất nước. Tuy vậy, khác với những quốc gia Hồi giáo ở Trung cận Đông, Hồi giáo mặc dù có khả năng chi phối, ảnh hưởng tực tiếp đến hoà bình, ồn định của khu vực, nhưng sự chi phối của Hồi giáo ở Đông Nam Á vẫn mềm dẻo, ít căng thẳng hơn. Điều này có thể dễ dàng giải thích bằng sức cải biến, sự pha trộn tín ngưỡng, sự linh hoạt tác động ngược trở lại, để hoà nhập văn minh bên ngoài vào mình và "máy lọc" đầy tính nhân bản của nền văn hoá bản địa Đông Nam Á khi tiếp nhận Hồi giáo.

[1] Năm trụ cột là: Đóng góp cho Đạo Hồi 10% thu nhập của mình; không ăn thịt lợn dưới bất kỳ hình thức nào; trong đời ít nhất một lần hành hương đến thánh địa Mecca; người đàn ông Hồi giáo có thể lấy bốn vợ, nhưng phải tôn trọng nguyên tắc: Khi lấy vợ sau phải được người vợ trước đồng ý và của cải tiền bạc do người chồng kiếm được phải phân phát công bằng cho tất cả các người vợ, không thiên vị bất cứ ai; nữ giới  phải đội khăn khi ra khỏi nhà để che tóc vì theo quan niệm Hồi giáo, tóc sexy  nhất, chỉ người chồng mới được chiêm ngưỡng.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!